BA PHƯƠNG PHÁP KHÁC ĐỂ DUY TRÌ ĐẠI ẤN - HENCHEN THRANGU RINPOCHE - NHỮNG ĐIỂM THIẾT YẾU CỦA ĐẠI ẤN: NHÌN THẲNG TÂM

BA PHƯƠNG PHÁP KHÁC ĐỂ DUY TRÌ ĐẠI ẤN

KHENCHEN THRANGU RINPOCHE - NHỮNG ĐIỂM THIẾT YẾU CỦA ĐẠI ẤN: NHÌN THẲNG TÂM

---o0o---

Giữa duy trì đại ấn trong tham thiền và duy trì nó trong sau tham thiền, duy trì trong sau tham thiền quan trọng hơn. Lý do là, trong hai mươi bốn giờ, chúng ta chỉ có một số giờ để ngồi thiền, thời gian còn lại chúng ta làm việc khác. Sẽ cực kỳ lợi lạc nếu chúng ta có thể duy trì kinh nghiệm đại ấn trong những giờ sau ngồi thiền. Kinh nghiệm của chúng ta sẽ có thể khai triển hơn và hơn nữa...
BA PHƯƠNG PHÁP KHÁC ĐỂ DUY TRÌ ĐẠI ẤN - HENCHEN THRANGU RINPOCHE - NHỮNG ĐIỂM THIẾT YẾU CỦA ĐẠI ẤN: NHÌN THẲNG TÂM

 [270]     Ba điểm chính để duy trì tham thiền được bàn luận thêm nữa. Điểm chính của sáu điểm của Tilopa là nói rằng, “Không tham thiền”. Điều này nghĩa là chỉ đơn giản an trụ trong tâm bình thường mà không có tạo tác nào cả. Từ điểm ấy, tham thiền không phải là một hoạt động tâm thức. Điều này được minh họa bởi lời khuyên của vị thầy vĩ đại Saraha khi ngài ví tâm của hành giả với xâu chuỗi của một Bà la môn – xâu chuỗi phải không quá chặt cũng không quá lỏng. Nếu tâm chúng ta quá chặt, chúng ta sẽ có những vấn đề rắc rối trong tham thiền. Cái đối trị cho điều này là, “Chớ tham thiền.” Lời khuyên này cho phép chúng ta thư giản. Tuy nhiên, nếu chúng ta thư giản quá nhiều, chúng ta sẽ sớm không tham thiền thật tánh của tâm. Cái đối trị cho sự thư giản quá độ này là, “Chớ xao lãng”. Hai cái đối trị này chứa đựng trong chúng lời khuyên chúng ta cần huấn luyện và kéo dài sự tham thiền về thật tánh của tâm.

Điểm thứ hai áp dụng khi tâm bắt đầu tán loạn và mọi loại tư tưởng bắt đầu sanh khởi. Tâm lang thang đây đó, và chúng ta rơi vào sự đu đưa của các khuôn mẫu khác nhau sanh khởi. Ở điểm này cái giúp ích là chánh niệm và cảnh giác, và trong hai cái, chánh niệm thì đặc biệt lợi ích. Điểm thiết yếu là không lang thang. Như vậy mọi chỉ dạy làm sao duy trì tham thiền có thể gồm trong hai điểm này: “Không tham thiền” và “Không lang thang.”

Điểm thứ ba xem xét “Không tham thiền” và “Không lang thang” bao gồm trong chúng những điểm thiết yếu của tham thiền như thế nào. “Không tham thiền” nối kết chủ yếu với thiền chỉ, trong đó lời dạy là thư giản, và “Không lang thang” nối kết chủ yếu với thiền quán trong đó dạy hành giả siết chặt hay chú tâm thích đáng.

Đối với một người bắt đầu, dễ rơi vào một trạng thái trong đó tâm chìm đắm và tối tăm nặng nề hay trở nên hoang dã loạn động. Đối trị cho hôn trầm là không tham thiền. Đối trị cho loạn động là không lang thang.

Duy trì Đại Ấn trong hậu tham thiền

[279]     Giữa duy trì đại ấn trong tham thiền và duy trì nó trong sau tham thiền, duy trì trong sau tham thiền quan trọng hơn. Lý do là, trong hai mươi bốn giờ, chúng ta chỉ có một số giờ để ngồi thiền, thời gian còn lại chúng ta làm việc khác. Sẽ cực kỳ lợi lạc nếu chúng ta có thể duy trì kinh nghiệm đại ấn trong những giờ sau ngồi thiền. Kinh nghiệm của chúng ta sẽ có thể khai triển hơn và hơn nữa khi cũng giảm căng thẳng và khó nhọc trong công việc và trong đời sống của chúng ta. Thế nên những phương pháp để duy trì kinh nghiệm tham thiền trong những thời kỳ sau tham thiền cần được xem là cực kỳ quan trọng. Phương diện này của thực hành đại ấn là cái làm cho nó đặc biệt hữu dụng cho thế giới Tây phương và thế kỷ hai mươi.

TỈNH GIÁC TRONG SAU THAM THIỀN

Duy trì chánh niệm không đứt đoạn trong sau ngồi thiền đòi hỏi sự nỗ lực nào đó. Phương diện của chánh niệm được đòi hỏi là không quên tâm đồng khởi. Nếu chúng ta duy trì được chánh niệm hoàn toàn và không bao giờ lang thang khỏi kinh nghiệm về tâm đồng khởi, chúng ta sẽ vẫn còn trong thời tham thiền. Bấy giờ cái gì là sự khác biệt giữa tham thiền chính thức về bản tánh của tâm và những thời kỳ sau đó? Trong những thời kỳ sau tham thiền, an trụ trong thật tánh của tâm được duy trì nhẹ nhàng. Bản văn gợi ý, “Nó không mất”. Chúng ta chỉ không lạc khỏi nó. Vẫn có một phần chánh niệm về thật tánh của tâm.

Chừng nào chúng ta giữ gìn phần chánh niệm này về bản tánh của tâm, bấy giờ khi những loại tư tưởng hay hiện tướng khác nhau sanh khởi, chúng ta không trụ định vào chúng như là có thật để bác bỏ hay xác nhận. Đúng ra, chúng ta ở lại ngay với tư tưởng hay hiện tướng ấy, kinh nghiệm nó và kinh nghiệm quang minh của nó. Bởi vì chúng ta có loại tỉnh giác ấy và có thể không bám vào những sự vật như là chân thật, chúng ta không lọt vào tham luyến và tức giận. Chúng ta không phải tạo hình những quan niệm – đánh giá những tư tưởng hay hiện tướng là tốt, xấu, và vân vân.

Thí dụ một đứa trẻ trong một phòng thờ Kim cương thừa. Khi đứa trẻ thấy những tranh vẽ các bổn tôn an bình và hung nộ, đứa trẻ chỉ nhìn vào đó, không quyết định là tốt hay xấu. Cũng như vậy, chánh niệm cho phép chúng ta kinh nghiệm những tư tưởng hay hiện tướng tự trình hiện trong tất cả sự sống động và rạng rỡ của chúng mà không chấp trụ vào chúng, không sanh những quan điểm và khái niệm khác nhau về chúng. Và như vậy chúng ta có thể ở trong một trạng thái không chỉ trống trải mà còn thanh tịnh và không biến chất bởi vì nó không bị suy nghĩ các sự vật tốt hay xấu, hấp dẫn hay không hấp dẫn làm tổn hại.

Duy trì chánh niệm trong sau tham thiền

Phương pháp duy trì kinh nghiệm tham thiền sau ngồi thiền là chánh niệm. Ở trước chúng ta đã nói về ba loại đồng khởi: tâm đồng khởi, tư tưởng đồng khởi, và hiện tướng đồng khởi. Trong thời ngồi thiền chúng ta quan tâm đến tâm đồng khởi; chúng ta nhận biết và nghiên cứu tâm đồng khởi và bản tánh của nó.

Khi ra khỏi thời thiền, chúng ta phải cố gắng nào đó với chánh niệm khi đi làm việc, nói chuyện với những người khác, và làm các hoạt động khác. Chánh niệm này không đến một cách tự nhiên. Có khi chúng ta có chánh niệm, những lúc khác thì không, nhưng cố gắng, chánh niệm trở nên vững chắc hơn; chúng ta càng trở nên quen thuộc với chánh niệm, nó càng trở nên liên tục.

Trong thời thiền chúng ta chánh niệm vào bản tánh của tâm. Chánh niệm sau tham thiền cũng không tách lìa khỏi đó. Trong sau tham thiền chúng ta có chánh niệm về suy nghĩ, soi chiếu lại, và nhớ lại bản tánh của tâm. Tâm chúng ta bị ảnh hưởng của sức mạnh chánh niệm này. Những tư tưởng sanh khởi, những hiện tướng  khác nhau sanh khởi, và chúng ta không tìm cách dừng chúng. Đồng thời chúng ta cũng không bám luyến vào chúng. Khi chúng sanh khởi, chúng ta không sợ chúng hay không khó chịu với chúng, cũng không khởi sanh phiền não. Đúng ra chúng ta cảm thấy an bình, thoát khỏi bám luyến và sợ hãi. Trong thí dụ đứa trẻ vào phòng thờ ở trên, nó nhìn mọi vật khác nhau, thấy mọi sự, nhưng không ngừng nghĩ, cái này trắng, cái này đỏ, đây là bổn tôn, đây là Đức Phật… Nếu chúng ta có thái độ và chánh niệm này trong sau tham thiền, tâm ta sẽ trở nên rất thư giản, trống trải, và bao la.

Chính xác, chúng ta làm gì với những tư tưởng và hiện tướng khi chúng sanh khởi? Bản văn đề cập điều này bằng cách nêu ra hai loại lỗi lầm chúng ta có thể mắc phải, và rồi giải thích cách thức thích đáng để đạt được mục đích.

Lỗi lầm thứ nhất là ngăn chặn tư tưởng và hiện tướng khiến chúng bị dừng hay không xuất hiện một cách rõ ràng. Lỗi lầm khác là theo chúng hay để chúng dẫn đi khiến chúng ta trở nên hoàn toàn xao lãng và mất chánh niệm. Chúng ta đi vào những tư tưởng rất bình thường như thể chưa từng thực hành tham thiền chút nào. Bấy giờ chúng ta như người bình thường, chối bỏ và chấp nhận những sự vật một cách thô lỗ. Thay vì thế, chúng ta phải làm việc với những tư tưởng và hiện tướng sanh khởi cho sáu thức. Bất kể cái gì xuất hiện, chúng ta duy trì cái hiểu về chúng như thuộc về một bản tánh mà nỗ lực của chúng ta không thể phạm trù hóa, nắm bắt, hay định nghĩa chúng.

Quả của kinh nghiệm tham thiền về tâm đồng khởi là mọi tư tưởng xuất hiện như tánh Không. Chúng xuất hiện nhưng chúng ta không bám nắm chúng. Chúng ta không xoay xở, tạo tác hay chế tạo cái gì. Chúng ta chỉ duy trì tỉnh giác tham thiền trong đó tâm an định vào bản tánh của nó. Đó là loại thấu hiểu thuộc chánh niệm chúng ta cần để duy trì sự tham thiền của chúng ta như là hậu tham thiền.

Chúng ta cần giữ loại chánh niệm này sống động trong bất cứ việc làm nào. Nếu là người mới bắt đầu, chúng ta xao lãng phần lớn thời gian. Có hai việc có thể làm đối với xao lãng này – một trong tham thiền và một trong sau tham thiền. Điều ích lợi nhất trong tham thiền là làm sanh khởi một chánh niệm rất mạnh mẽ về bản tánh đồng khởi của tâm. Trong sau tham thiền chúng ta phải nỗ lực áp dụng chánh niệm. Một khi đã làm điều đó, chúng ta sẽ có thể ở trong quang minh và tánh Không, không dùng nhiều nỗ lực khi những tư tưởng và hiện tướng sanh khởi.

Nếu chánh niệm này và kinh nghiệm về những tư tưởng và hiện tướng như là quang minh – tánh Không không sanh khởi, đây là một dấu hiệu chúng ta chưa liên hệ đủ với tham thiền. Nó là một chỉ điểm rằng khi chúng ta thực hành tham thiền chính thức, chúng ta cần nỗ lực để kinh nghiệm tư tưởng đồng khởi và hiện tướng đồng khởi, khảo sát chúng nơi chúng sanh khởi, nơi chúng dừng trụ, và nơi chúng đi đến.

Đem mọi sự vào con đường

Đoạn thứ ba về sau tham thiền nói về chúng ta đem tư tưởng vào con đường như thế nào. Gampopa gợi ý rằng chúng ta làm điều này theo ba cách. Cách thứ nhất là “tiêu hủy bất cứ cái gì mình gặp.” Nếu chúng ta có quen thuộc nào đó với kinh nghiệm sau tham thiền, nó giống như gặp một người bạn cũ. Khi những tư tưởng sanh khởi, chúng ta lập tức có chánh niệm và cảnh giác nhận hiểu bản tánh của chúng. Chúng ta nhận biết bản tánh của tư tưởng rất sớm sau khi tư tưởng sanh khởi, không đi vào phân tích. Khi chúng ta có thể làm điều đó, chúng ta có thể đi vào tâm vô sanh khi những tư tưởng và hiện tướng khởi lên mà không cần phân tích trước tiên. Chúng ta nhận biết một cách tự nhiên sự không sanh khởi của tâm, bản tánh vô sanh của nó.

Cách thứ hai là “làm sinh động lại tỉnh giác”. Điều này giống như chú ý rằng một người bạn đã thăm viếng chúng ta mà bỏ quên lại cái gì đó. Chúng ta chạy theo và cố gắng bắt kịp để bảo họ trở lại lấy đồ. Đó là cách chúng ta thực hành ở điểm này. Chúng ta đã rơi vào bùa mê của những tư tưởng và hiện tướng, chúng ta bị chúng tràn ngập cách nào đó, và chúng ta phải khởi động lại toàn bộ tiến hành tham thiền từ đầu. Chúng ta phải nhìn vào những sự vật cẩn thận và làm sinh động trở lại chánh niệm về cái đang diễn tiến.

Cách thứ ba được dịch theo nghĩa đen là “lưu xuất của không hiện hữu” Trong tình huống này chúng ta quen thuộc hoàn toàn với thực hành chánh niệm trong sau tham thiền. Nó giống như một ngọn lửa lớn cháy trong rừng. Bất cứ cái gì chúng ta liệng vào ngọn lửa đều cháy ngay lập tức. Nếu lửa mới ở giai đoạn đầu, củi ướt hay một cơn gió mạnh đe dọa ngọn lửa. Nhưng một khi ngọn lửa đã cháy bừng, bất cứ cái gì liệng vào đó đều trở thành nhiên liệu thêm nữa cho nó. Ở điểm này chúng ta đã trở nên quen thuộc với thực hành chánh niệm trong sau tham thiền đến độ bất kỳ loại tư tưởng hay hiện tướng nào, thậm chí bình thường thì rất khó khăn, chỉ là sự biểu lộ tự phát của thực tại, của pháp tánh.

Ba cách làm việc với tư tưởng và hiện tướng này trong sau tham thiền trở thành quen thuộc với chúng ta. Nếu rất quen thuộc với chúng, chúng ta có thể thực hành cách thứ ba; nếu ít quen thuộc, chúng ta thực hành cách thứ nhất; và nếu còn ít quen thuộc hơn nữa, chúng ta thực hành cách thứ hai.

THẤY MỌI VIỆC NHƯ MỘT PHÔ DIỄN HUYỄN THUẬT

Điểm thứ tư của đoạn này bình luận về thấy những hiện tướng là như huyễn nghĩa là gì. Trước chúng ta đã nói sự cân bằng tham thiền thì giống như hư không và hậu tham thiền thì giống như huyễn. Khi nói “giống như huyễn” có nghĩa rằng những sự vật của thế giới này – những màu sắc và hình dáng, âm tham, mùi, vị, sự vật sờ nắm được – không được thiết lập như chúng có vẻ vậy. Chúng xuất hiện cho thức và thức không thấy sự vật như chúng là.

Hai điều cần được trình bày nếu chúng ta muốn đến chỗ thực sự chứng ngộ thực tại là một ảo tưởng: những chứng ngộ những hiện tượng là trống không và những hiện tướng là như huyễn. Khi tâm thấu hiểu điều này một cách xác quyết và rõ ràng, chúng ta có, “hiện tướng như huyễn.” Một thí dụ khi một nhà huyễn thuật tạo ra hiện tướng của những sự vật – như ngựa và voi – những người khác thật sự thấy với thức con mắt của họ. Dĩ nhiên, nhà huyễn thuật tạo ra những hiện tướng ấy thì không bị chúng làm ngu dại; người ấy biết những hiện tướng không phải là cái chúng có vẻ như vậy do thức con mắt. Trong hiện tướng như huyễn, những sự vật xuất hiện với các thức giác quan, nhưng ý thức biết, không ngần ngại, rằng những hiện tướng ấy không phải như chúng có vẻ là vậy. Hiện tướng như huyễn xảy ra khi hiện tướng và cái hiểu xác quyết biết rằng hiện tướng là giả xảy ra đồng thời.

Huyễn có nghĩa gì trong “bất cứ cái gì xuất hiện đều giống như huyễn”? Một đoạn trong Kinh Định Vương nói:

Sự thiền định về những đặc tính

Thì trống không của bản tánh vô sanh,

Giống một ảo ảnh, một thành phố Càn thát bà,

Giống như một huyễn tướng hay một giấc mộng,

Hãy hiểu tất cả mọi hiện tượng theo cách như vậy.

Tashi Namgyal gợi ý rằng huyễn nghĩa là, một, pháp tánh và chứng ngộ trọn vẹn là huyễn, và, hai, những hiện tượng như năm uẩn là huyễn. Hiện tướng như huyễn ám chỉ hiểu biết của thiền giả rằng những sự vật không hiện hữu theo những cách chúng xuất hiện.

Đã nhận diện cái tâm hiểu hiện tướng như huyễn, bản văn bấy giờ giải thích cách mà hiện tướng sanh khởi. Những sự vật khác nhau xuất hiện cho năm thức giác quan, nhưng ý thức biết rằng những hiện tượng ấy không hiện hữu nội tại và chỉ là những hiện tướng. Đó là sự khởi lên của hiện tướng như huyễn trong hậu tham thiền.

Rồi bản văn giới thiệu những cách trong đó chúng ta có thể bị lầm lẫn về hiện tướng như huyễn. Trong những chỉ dạy tinh túy về đại ấn, thường có nói rằng chúng ta không nên thao tác tâm chúng ta theo bất cứ cách gì; đúng hơn, chúng ta phải nhận biết nó như nó là mà không tạo tác. Chúng ta để tâm an trụ trong hư không vốn như vậy. Có một số cách chúng ta có thể hiểu sai những lời dạy này. Chẳng hạn, chúng ta kinh nghiệm nhiều phiền não căn cứ trên những đối tượng bên ngoài và rất rối rắm và rồi nghĩ, “Ta chỉ thư giản trong này mà không cố gắng thay đổi hay bám chấp vào nó.” Đó là một lỗi lầm lớn. Hay chúng ta có thể kinh nghiệm những hiện tướng sai lầm bị nhiễm ô bởi vô minh và nghĩ rằng sự thực hành hiện tướng như huyễn là thư giản trong đó. Có một khác biệt lớn giữa thư giản trong tâm như nó là và thư giản trong vô minh. Không đúng nếu thư giản trong vô minh hay ý niệm, chúng không hiểu sự vật như chúng là.

Hợp nhất của tham thiền và hậu tham thiền

[289]     Bản văn tiếp tục bàn luận cách những thời kỳ tham thiền và hậu tham thiền có thể đi chung với nhau. Sự trộn lẫn tham thiền và hậu tham thiền chỉ xảy ra ở cấp độ rất cao của chứng ngộ, và nó đòi hỏi nỗ lực ghê gớm. Vào thời gian hiện tại, chúng ta không có nhiều kiểm soát hay quyền lực trên cái đó. Tuy nhiên, nó được nêu lên ở đây trong văn bản để làm sáng tỏ điểm này.

Khi được các học trò hỏi về hòa lẫn tham thiền và hậu tham thiền, Gampopa trả lời rằng nó ám chỉ không bao giờ tách lìa với tịnh quang. Điều này nghĩa là sự chứng ngộ tịnh quang xảy ra trong bất cứ điều gì chúng ta là – ngủ, ăn, mọi sự.

---o0o---

Trích “Những điểm thiết yếu của Đại Ấn: Nhìn thẳng tâm”

Tác giả: Khenchen Thrangu Rinpoche

Ban dịch thuật: TTT

Ảnh: nguồn internet

Bài viết liên quan