ĐẶC TÍNH CỦA THẬP NHƯ THỊ ĐỐI VỚI BỒ TÁT VÀ PHẬT - Trích “PHÁP HOA HUYỀN NGHĨA PHẬT HỌC THIÊN THAI TÔNG” - TRÍ KHẢI ĐẠI SƯ (538 - 597) người sáng lập tông Thiên Thai

ĐẶC TÍNH CỦA THẬP NHƯ THỊ ĐỐI VỚI BỒ TÁT VÀ PHẬT

Trích “PHÁP HOA HUYỀN NGHĨA PHẬT HỌC THIÊN THAI TÔNG” - TRÍ KHẢI ĐẠI SƯ (538 - 597) người sáng lập tông Thiên Thai

Từ Hoa dịch – NXB Phương Đông

--o0o--

‘Một trăm pháp giới và một ngàn như thị là cảnh giới khách quan của Phật, và chỉ có Phật với Phật mới có thể vào chỗ tận cùng thực tại như vậy. Giống như một cái hộp khổng lồ, cái nắp hộp cũng phải to lớn.
ĐẶC TÍNH CỦA THẬP NHƯ THỊ ĐỐI VỚI BỒ TÁT VÀ PHẬT - Trích “PHÁP HOA HUYỀN NGHĨA PHẬT HỌC THIÊN THAI TÔNG” - TRÍ KHẢI ĐẠI SƯ (538 - 597) người sáng lập tông Thiên Thai

Ý nghĩa của thập Như Thị trong cảnh giới thứ tư của chư Bồ tát và chư Phật được diễn tả trong ba hạng Bồ tát với những thứ bậc chứng đắc khác nhau: Bồ tát Tạng giáo, Bồ tát Thông giáo, và Bồ tát Biệt giáo.

Nhìn về Bồ tát lục độ (thuộc Tạng giáo), Tướng, Tánh, Thể, Lực, Dụng liên quan đến đức hạnh của Bồ tát, là những cái có từ công phu hành trì sáu ba la mật. ‘Nhân’ là thiện nghiệp, vì Bồ tát vẫn còn cư trú trong thế giới chúng sinh. ‘Duyên’ chỉ cho phiền não vì Bồ tát chưa đoạn ô nhiễm. ‘Quả’ chỉ cho Bồ tát lìa trói buộc bởi phương tiện của ba mươi bốn tâm đoạn kết. ‘Như thị’ báo chỉ cho mười như thị Bồ tát luôn tương ứng. Với Bồ tát Thông giáo, Tướng, Tánh, Thể, Lực, Dụng, Nhân, Duyên, Quả đã được nói đến trong những bối cảnh vô nhiễm. Báo có nghĩa rằng Bồ tát trước địa thứ sáu vẫn còn nhận báo, từ địa thứ sáu đến địa thứ mười thì không còn nhận bất cứ báo nào nữa. Điều này bởi vì ở địa thứ sáu, Bồ tát đã hoàn toàn đoạn trừ những thái độ sai lầm và không còn phải chịu tái sinh, cho thấy rằng hạnh nguyện vào đời cứu giúp chúng sinh không phải là báo như là kết quả từ nghiệp có thực. Như vậy, Bồ tát chỉ tương ưng với chín như thị, không phải mười (vì không có báo). Với Bồ tát Biệt giáo, vì hành trì Trung Đạo, và tiến dần trong quán chiếu, Bồ tát ôm trọn mười pháp giới.

Nhìn về mười Như Thị trong Phật giới, ‘Tướng' hướng về Phật tánh như duyên nhân của Phật tánh, đó là sự làm lợi ích chúng sinh tăng trưởng; ‘Danh” là liễu nhân (vyanjanahetu) của Phật tánh, dụ cho trí tuệ của chúng sinh; ‘Thể’ là chánh nhân của Phật tánh dụ cho tâm thanh tịnh và tĩnh lặng như thể tánh mà chúng sinh hằng có; ‘Lực’ chỉ cho nỗ lực giải thoát của Phật vượt trên Nhị Thừa; ‘Dụng’ chỉ cho Tứ Hoằng Thệ Nguyện của Phật; ‘Nhân’ là sự trang nghiêm của Phật trí, ‘Duyên’ chỉ cho Phật hạnh; ‘Quả’ là những hiệu quả liên tục từ giải thoát bất khả tư nghì trong đó mỗi mỗi niệm của Phật đều hợp nhất với tâm đại giác; ‘báo’ tức đại Niết Bàn, và như thị ‘bản mạt cứu cánh đẳng’ chuyển đạt lý Trung Đạo, có nghĩa rằng Tam Đế có sẵn trong chúng sinh từ khởi điểm hành trì không khác với Tam Đế hiển lộ cuối đường giải thoát. Chỗ này nói lên rằng cả hai đều từ một (Không, Giả, Trung Đạo), và cả hai cùng căn cứ trên nhân và duyên. Trí Khải giữ vững lập luận của mình bằng cách giải thích thêm rằng với tánh Không, chúng sinh và Phật đã tự bao giờ vô sai biệt, bởi vì tánh cùng rỗng lặng. Khi sự không phân biệt này được nhìn với ‘Giả’ có nghĩa rằng mười pháp giới thâm nhập vào nhau và cùng có mặt trong nhau. Chúng sinh cùng Phật không khác, với ý nghĩa cả Phật và chúng sinh đều có Phật tánh. Phật và chúng sinh như nhau với cái thấy tất cả chúng sinh đều có thể đạt đến Phật giới nếu như vẫn hành trì liên tục như Phật đã từng làm trước kia. Với lý Trung Đạo, ‘cứu cánh đẳng’ có nghĩa rằng tất cả những chúng sinh vô minh, và hiền thánh đều là những thành phần tạo nên chân tánh.

Qua những định nghĩa nói trên về mười Như Thị trong tương quan với mười Pháp giới, Trí Khải đã nói rõ về sự bất khả tư nghị của mười Như Thị thuộc Phật giới, và xác định rằng cõi Phật là sự hiển lộ của Chân Như. Tuy nhiên, Trí Khải lập luận rằng mặc dù cõi này khác với cõi kia vì những định nghĩa về mười Như Thị khác nhau, nhưng tất cả cùng là chân tánh gồm cả hai chân lý tương đối và chân lý tuyệt đối. Nói cách khác, sự thật tương đối và tuyệt đối cùng hiện hữu như một sự quy nguyên, và có trong nhau với nghĩa phổ khắp. Mặt khác, không có chín cảnh giới tương đối, sự tối thượng của Phật giới không thể được nhìn thấy tận tường, và không có sự tuyệt đối, sự tương đối không có được bất cứ giá trị nào, cả hai điều này thành lập một khái niệm quy nguyên hiện hữu một cách độc lập. Mặt khác, nếu tục đế không dung chứa chân đế, thì sự chứng đạt Phật tánh không thể có được; nếu chân đế không dung chứa tục đế, chư Phật cũng không thể giáo hóa chúng sinh. Chỉ với tuyệt đối hàm chứa trong tương đối như nhân Phật, thì sự chứng đạt mới có thể thành tựu, vì tất cả chúng sinh trong chín cõi đều có khả năng bước vào Phật địa bình đẳng như nhau; chỉ với tương đối hàm chứa trong tuyệt đối thì sự phổ độ vô tận của chư Phật đối với chúng sinh mới hợp lý.

2. Giải thích sâu rộng về Pháp Phật

Với Chúng Sinh Pháp bao gồm cả hai mặt tục đế và chân đế, Pháp Phật giải thích sâu hơn về Phật trí liên quan đến chân lý tương đối và chân lý tuyệt đối từ đó những sâu xa, rộng lớn của chân lý khách quan được hiển lộ. Theo Trí Khải, chân lý khách quan này chỉ được hòa nhập bởi Phật với trí nhị đế liên quan đến chân đế và tục đế. Với trí nhị đế, Phật có thể gồm thu chín pháp giới kia, và dùng những phương tiện thiện xảo để hoán chuyển chúng sinh. Vì thế, nhị đế bao gồm chân và tục đế thì siêu việt, và hiển lộ được sự bất khả tư nghì của pháp Phật. Trí Khải nói rằng pháp Phật không phải là một cái gì đó tách biệt với thế giới giác quan, nhưng thật sự cùng chung một thực tại. Sự vi diệu này phản ảnh trong sự kiện rằng nhị đế tương đối và tuyệt đối chỉ có Phật mới hội nhập trùm khắp được. Sự vi diệu này cũng phản ảnh trong sự kiện rằng chỉ có Phật, với trí nhị đế phát triển tận tường sự sâu rộng chân lý khách quan. Tánh bất khả tư nghì của pháp Phật được Trí Khải diễn tả như sau:

‘Một trăm pháp giới và một ngàn như thị là cảnh giới khách quan của Phật, và chỉ có Phật với Phật mới có thể vào chỗ tận cùng thực tại như vậy. Giống như một cái hộp khổng lồ, cái nắp hộp cũng phải to lớn. Với trí Phật không có chỗ tận cùng, chư Phật chiếu soi Phật giới vô biên và cảnh giới thường tịch. Vì Phật đạt đến chỗ tận cùng của chân lý được gọi là “theo như ý (folowing his own will). Nếu Phật hiển lộ đặc tính của chín cõi khác hơn Phật địa từ thủy chí chung không sót một sợi tơ hoặc một hạt cải, đó gọi là theo một ý khác (following another’s will). Trên căn bản của hai Pháp này, Phật hiện lộ Tích môn của mười cảnh giới, hoặc là tự ứng thân Phật hoặc là thân người khác, tự ý thuyết hoặc thuyết vì người thỉnh cầu. Cả hai đều không thể nghĩ bàn, và cả hai thân Phật và thân khác đều vi diệu và thanh tịnh. (Sau cùng) tất cả không tục cũng không chân, và có khả năng ứng hợp với sự tương đối của chín cõi và sự tuyệt đối của một cõi, mà không hao hụt đối với cõi Phật.

3.Giải thích sâu rộng về Tâm Pháp

Trong phần này, Tâm được nói đến liên quan đến quán chiếu tâm. Với Trí Khải, quán chiếu tâm là phương sách đạt đến chân tánh bởi vì pháp chúng sinh thì quá bao quát và pháp Phật thì quá cao siêu. Quán chiếu tâm liên quan đến Tam Đế và muôn mặt của tâm. Bởi vì chân tánh liên quan đến Tam Đế và viên dung tất cả, quán chiếu tâm được chứng minh là phương pháp hữu hiệu nhất để hội nhập vào được chân tánh. Sự toàn diện của quán tâm hiển lộ sự đồng nhất của tam pháp trong đoạn kinh Hoa Nghiêm được trích dẫn sau đây:

“Tâm, Phật, và Chúng Sinh không khác biệt”

Trí Khải chỉ rõ cái quán tâm có thể đạt đến bằng cách dẫn chứng thêm một đoạn kinh Hoa Nghiêm khác:

“Khi tâm chúng sinh đi vào pháp giới, với tâm rỗng lặng thì chúng sinh sẽ biết được cõi thường tịch của chư Phật.

Trí Khải tin rằng trong đoạn kinh dẫn chứng trên với tâm chúng sinh đi vào pháp giới, chỉ cho thấy tâm liên quan đến Tam Đế, và quán tâm là phương tiện đến với Tam Đế. Trí Khải giải thích:

Pháp giới đồng nhất với Trung Đạo. Rỗng lặng đồng như Không. Tâm và Phật đồng với Giả. Cả ba cùng đồng nhất với cõi thường tịch của chư Phật. Điều này có nghĩa rằng nếu chúng sinh quán chiếu tâm niệm, chúng sinh có thể tương ưng với tất cả pháp Phật.

Sự viên dung của tâm được Trí Khải nhấn mạnh hơn khi chủ trương rằng quán tâm đưa một ý tưởng trùm khắp thực tại như một khối:

‘Khi tâm chúng sinh đi vào pháp giới, khi quán chiếu những cảm thọ đối nghịch trong tương quan với đối tượng quán chiếu, một niệm phát sinh tự tâm có thể trực thuộc một trong mười pháp giới. Khi (một niệm) thuộc về một cõi, tức thời ôm trọn một trăm cõi và một ngàn Pháp. Một niệm này đầy đủ tất cả (mọi mặt của chân tánh).

Đoạn văn này nói rằng tất cả những đặc tính của chân tánh có trong một niệm. Vì vậy, quán tâm là phương pháp thực tiễn nhất để có thể đạt đến Chân Như.

Nói rằng quán tâm không phải tự sinh khởi cũng không phải từ yếu tố khác sinh khởi, Trí Khải chỉ rõ làm cách nào chân tánh có thể được nhận thức qua sự phủ định:

‘Khi rỗng lặng, nếu tâm quán chiếu tự phát sinh thì tâm đó không cần tùy thuộc vào nhân và duyên. Bởi vì tâm tùy thuộc vào nhân và duyên, tâm không có năng lực tự phát sinh. Bởi vì tâm không có năng lực tự phát sinh, duyên cũng không thể tự phát sinh. Tâm và duyên của tâm không hiện hữu (độc lập), làm thế nào có thể có thực trong nhau? Nếu cả hai không đến được chỗ tương hợp, thì không thể nào sinh khởi ở chỗ chia lìa. Nếu không thể có một sự tự phát sinh nào khả dĩ, làm thế nào có được một trăm cõi và một ngàn Pháp? Vì tâm rỗng lặng, tất cả mọi thứ do tâm sáng tạo cũng là Không, cái Không này cũng rỗng lặng. Tánh rỗng lặng đó thì không phải là trống vắng. Áp đặt tánh Không này vào Giả, Giả cũng chẳng phải là thực Giả. Nếu không là Giả cũng không là Không, thì đó là sự thanh tịnh tối hậu (của Trung Đạo.)

Đoạn văn trên nhấn mạnh vào ý nghĩa trên sự quán chiếu tâm. Phương pháp quán tâm qua lối phủ định được diễn tả như con đường đi vào thực lý Trung Đạo. Với lối phủ nhận thứ tâm tự sinh khởi hoặc sinh khởi từ bên ngoài, hành giả có thể vào được tánh Không. Với lối phủ nhận hiện hữu cố định của Không và Giả, sự phủ nhận này ngăn người tu tự trói buộc vào một trong hai lý này, nhờ đó, thực lý Trung Đạo được hiển lộ.

Kết luận, phần II.1 quyển II trong toàn bộ tập sách này phần lớn là sự chú giải của Trí Khải về chữ Pháp. Qua cách chú giải này, Pháp Phật thuyết ra vi diệu bất khả tư nghì. Nghĩa chữ Diệu, theo Trí Khải, Thể vô biên, Vị vô lượng, và Dụng vô tận. Ba khía cạnh vi diệu này được nói đến trong tương quan với mười pháp giới là sự phơi bày của Chân Như. Vì chân tánh này được tạo dựng bởi tánh tương đối của chín pháp giới, và tánh tuyệt đối của Phật giới, lời Thế Tôn thuyết ra để đưa chúng sinh bước vào Phật giới làm bằng chứng. Trở lại sự kiện rằng cả chín cõi và cõi Phật đều thuộc về pháp giới, và pháp giới là chân như, Trí Khải vẫn chủ trương rằng chín cõi như tục đế dung chứa chân đế và cõi Phật như chân đế dung chứa tục đế. Thực tại đồng nhất giữa tương đối và tuyệt đối của mười pháp giới khiến cho pháp của chân tánh vi diệu bất khả tư nghì. Hợp với sự vi tế đã nói trong ba mặt thể vô biên, vị vô lượng, và dụng vô tận; Trí Khải chia Pháp ra làm ba. Ba thứ lớp này (Chúng sinh, Phật, và Tâm) nối liền với ba khía cạnh của Diệu. Pháp chúng sinh liên quan đến mười pháp giới (mang đặc tính của mười như thị) chỉ bày thể tánh vô biên mà giáo pháp Thế Tôn đặt căn bản vào, tức chân như. Pháp Phật liên quan đến tri kiến Phật với tục đế và chân đế chỉ bày vô lượng vị của giáo pháp Thế Tôn đưa đường chúng sinh đạt đến Phật tánh. Tâm Pháp liên quan đến con đường nhận ra chân tánh chỉ bày cái dụng vô tận lợi ích từ lời Phật thuyết ra trong ba đời. Vì vậy, với định nghĩa của Trí Khải, Diệu là để chỉ cho Pháp, và Pháp tức là Diệu, vì thể tánh hiển bài như một thực tại đồng nhất. Chúng ta có thể nhìn phần giải thích này của Trí Khải về Diệu và Pháp như những đặc tính tổng quát của diệu pháp. Trong phân giải thích đồ sộ sau đây của Trí Khải về chữ Diệu có thể được nhìn như tính đặc thù của diệu pháp, với Thập Diệu tương quan đến nhân và quả của Phật tánh.

Ảnh nguồn internet