LƯỢNG TỬ BIẾT NÓI: CẢM XÚC LÀ CHÌA KHÓA - GREGG BRADEN - MA TRẬN THẦN THÁNH

LƯỢNG TỬ BIẾT NÓI: CẢM XÚC LÀ CHÌA KHÓA

GREGG BRADEN

MA TRẬN THẦN THÁNH

---o0o---

Ở phần đầu Chương này, chúng ta đã nhận biết nhiều cách diễn giải về lý do tại sao sự kỳ quái lượng tử dường như xảy ra như nó vốn thế. Các thuyết đều đặc biệt quan tâm đến tại sao hành động chỉ đơn giản quan sát vật chất của chúng ta lại thay đổi vật chất. Mặc dù mỗi giải thích đều khác nhau về lý do tại sao hiệu ứng cụ thể lại xảy ra, tất cả đều dường như gợi ý về một mẫu số chung y hệt nhau: chúng ta và vai trò của chúng ta với cách người quan sát trên thế giới.

Khi chúng ta quan sát thứ gì đó - nghĩa là, khi chúng ta tập trung sự chú ý của bản thân một cách có ý thức vào một chỗ theo thời gian - dường như chúng ta đang khóa chặt một trong rất nhiều khả năng lượng tử vào một chỗ trong khoảnh khắc đó. Cho dù khả năng lượng tử đó đến từ một “thực tại song song” hay từ món súp của những xác suất lượng tử lúc thăng lúc trầm, các lý thuyết cho rằng những gì chúng ta coi là Thực tại (với chữ T viết hoa) là chính nó bởi vì sự hiện diện của chúng ta.

Mặc dù điều này dường như là một tin tức có tính cách mạng đối với khoa học hiện đại nhưng người ta đã chấp nhận mọi thứ vốn là vậy trong tín ngưỡng cổ xưa và văn hóa bản địa suốt nhiều thế kỷ. Trong ngôn ngữ của những nền văn minh đã qua, những người ghi chép, nhà thần bí, người chữa lành và học giả đã cố gắng hết sức để bảo tồn bí mật tuyệt vời về mối quan hệ của chúng ta với vũ trụ và truyền lại nó cho chúng ta. Đôi khi chúng ta tìm thấy trí tuệ đầy quyền năng tại những nơi mà chúng ta ít ngờ đến nhất.

Từ những bức vách trên đền thờ và lăng mộ trong sa mạc Ai Cập cho tới trí tuệ Ngộ đạo của thư viện Nag Hammadi cổ xưa cho đến y học cổ truyền mà người ta thực hành trên khắp vùng Tây Nam Hoa Kỳ ngày nay, ngôn ngữ trí tuệ đó thổi hồn vào những khả năng tưởng tượng, ước mơ và lời cầu nguyện của con người vẫn còn lưu lại cùng với chúng ta. Có lẽ, lời mô tả của một người đàn ông đã sống trong một tu viện ở độ cao gần 4.500 m so với mực nước biển, ở cao nguyên Tây Tạng chính là ví dụ rõ ràng nhất về ngôn ngữ này. Vào mùa xuân năm 1998, tôi đã có cơ hội thực hiện một chuyến đi nghiên cứu kết hợp với hành hương đến vùng cao nguyên miền trung Tây Tạng trong 22 ngày. Suốt thời gian đó, cả nhóm và tôi đã thấy mình chìm đắm trong một mảnh đất tuyệt đẹp, thô ráp, hoang sơ và sâu xa nhất còn sót lại đến nay trên hành tinh này. Dọc hành trình, chúng tôi đã ghé thăm 12 tu viện, hai nữ tu viện và một vài con người tuyệt đẹp nhất mà bạn từng có thể hình dung ra bao gồm các nhà sư, nữ tu, người du mục và người hành hương. Chính trong thời gian này tôi gặp gỡ trực tiếp với người đứng đầu của một trong những tu viện và có cơ hội đưa ra câu hỏi mà chúng tôi đã cất công đi thật xa và lâu đến vậy để hỏi.

 Vào một buổi sáng băng giá, chúng tôi thấy mình đang chen chân vào một tu viện nhỏ được vây quanh bởi những bệ thờ Phật và những tấm thangka cổ xưa (những tấm thảm thêu tinh xảo mô tả những giáo lý vĩ đại trong quá khứ). Tôi hướng sự tập trung trực tiếp vào đôi mắt của một người đàn ông có bề ngoài dường như không chịu tác động của thời gian đang ngồi khoanh chân theo kiểu đài sen trước mắt mình. Thông qua người phiên dịch, tôi đã hỏi ông cùng một câu hỏi mà tôi đã hỏi tất cả các vị sư và nữ tu mà tôi đã gặp mặt xuyên suốt chuyến đi hành hương của chúng tôi. Tôi bắt đầu: “Khi chúng con thấy những lời cầu nguyện của ngài thì ngài đang làm gì? Khi chúng con theo dõi ngài tụng kinh suốt 14 đến 16 tiếng mỗi ngày, khi chúng con nhìn thấy những chiếc chuông, bát, cồng, chuông gió, thủ ấn và câu thần chú ở bên ngoài, điều gì đang xảy ra bên trong ngài?”

Một cảm giác mạnh mẽ lan tỏa khắp cơ thể tôi khi người phiên dịch chia sẻ câu trả lời của ngài tu sĩ trưởng. “Con chưa từng bao giờ nhìn thấy những lời cầu nguyện của chúng ta” ngài nói “bởi lẽ người ta không thể nhìn thấy một lời cầu nguyện” Vị tu sĩ trưởng chỉnh lại chiếc áo choàng len nặng nề bên dưới chân và tiếp tục, “Những gì con đã thấy là những việc chúng ta làm để tạo ra cảm xúc bên trong cơ thể mình. Cảm giác chính là lời cầu nguyện!”

 Tôi đã nghĩ, thật đẹp làm sao. Và thật đơn giản làm sao! Cũng giống các thí nghiệm cuối thế kỷ 20 đã cho thấy, chính cảm nhận và cảm xúc của con người ảnh hưởng đến nguyên liệu tạo nên thực tại của chúng ta - chính ngôn ngữ bên trong của chúng ta làm thay đổi các nguyên tử, electron và Photon của thế giới bên ngoài. Tuy nhiên, điều này không hẳn là những lời lẽ thực sự mà chúng ta thốt ra mà thiên về cảm xúc mà chúng tạo ra bên trong chúng ta. Chính ngôn ngữ cảm xúc là thứ trò chuyện với các lực lượng tử của vũ trụ. Cảm xúc chính là thứ mà Ma Trận Thần Thánh thừa nhận.

Chìa khóa 9: Cảm xúc chính là ngôn ngữ để “giao tiếp với Ma Trận Thần Thánh. Hãy cảm thấy như thể mục tiêu của bạn đã hoàn thành và lời cầu nguyện của bạn đã được hồi đáp.

 Người tu sĩ trưởng đang nói với chúng tôi về cùng một thứ mà các nhà khoa học vĩ đại của thế kỷ 20 đã đề cập. Ông không chỉ truyền đi cùng những ý tưởng mà các thí nghiệm đã ghi lại, ông còn đang tiến hành một bước xa hơn: Ông đang chia sẻ những hướng dẫn mô tả cách chúng ta có thể nói thứ ngôn ngữ của những khả năng lượng tử và ông đang làm vậy thông qua một kỹ thuật mà chúng ta ngày nay biết đến dưới dạng cầu nguyện. Không có gì ngạc nhiên khi những lời cầu nguyện hiệu quả như những phép màu! Chúng khiến cho chúng ta chạm vào không gian thuần khiết nơi mà những phép màu trong tâm trí trở thành thế giới thực tại của chúng ta.

LÒNG TRẮC ẨN: MỘT LỰC CỦA TỰ NHIÊN VÀ TRẢI NGHIỆM CON NGƯỜI

Sự rõ ràng trong câu trả lời mà ngài tu sĩ trưởng đã đưa ra khiến tôi cảm thấy rúng động. Lời của ông làm vang vọng những ý tưởng đã được ghi lại trong tín ngưỡng Ngộ đạo (Gnostic) và Cơ đốc cổ xưa 2000 năm trước. Để những lời cầu nguyện của chúng ta được hồi đáp, chúng ta phải vượt lên nỗi nghi ngờ thường xuyên đồng hành với bản chất tích cực trong khát vọng của chúng ta. Tiếp nối lời dạy ngắn gọn về việc vượt qua những phân cực như vậy, những lời của Chúa Giêsu được ghi lại trong thư viện Nag Hammadi nhắc cho chúng ta về sức mạnh trong các mệnh lệnh của bản thân. Bằng những lời lẽ mà đến giờ đã trở nên quen thuộc với chúng ta, chúng ta được nhắc nhở rằng khi chúng ta nói với ngọn núi, “Núi hãy dời đi “ thì ngọn núi sẽ dời đi.”

Thông qua sự rõ ràng trong lời nói của mình, ngài tu sĩ trưởng đã giải đáp bí ẩn về những điều mà các tăng ni đang tiến hành trong lời cầu nguyện của họ. Họ đang nói ngôn ngữ của cảm xúc và cảm giác, một thứ vô ngôn ngữ không hề đầu môi chót lưỡi nào có thể tả được.

Vào năm 2005, tôi có cơ hội viếng thăm lại các tu viện ở Tây Tạng trong tổng cộng 37 ngày. Suốt hành trình, nhóm của tôi biết được rằng ngài tu sĩ trưởng, người đã chia sẻ bí mật về cảm xúc vào năm 1998 đã qua đời. Mặc dù hoàn cảnh chưa bao giờ được làm sáng tỏ, chúng tôi đều biết rằng ngài không còn trên thế gian này nữa. Mặc dù chúng tôi chưa từng gặp vị tu sĩ mới - thay thế vị trí tu viện trưởng, nhưng khi vị này nghe nói đến sự trở lại của chúng tôi, ngài đã chào mừng chúng tôi về thăm lại tu viện và cho phép chúng tôi tiếp tục câu chuyện đã bắt đầu vào năm 1998.

Vào một buổi sáng lạnh giá khác của Tây Tạng trong một tu viện khác, chúng tôi thấy mình đang đối mặt với vị tân tu sĩ trưởng của tu viện. Chỉ vài phút trước đó, chúng tôi đã được đưa qua lối đi lát đá quanh co dẫn chúng tôi đến căn phòng nhỏ, lạnh lẽo và sáng lờ mờ này – trong bóng tối hoàn toàn, chúng tôi cẩn thận dò dẫm tìm đường từng bước một dọc theo sàn nhà trơn tuột, nhẵn nhụi đầy nguy hiểm sau bao thế kỷ tích tụ bơ trâu yak trên bề mặt. Chính trong bầu không khí hư vô mátlạnh của căn phòng cổ xưa nằm giữa tu viện này, tôi đã hỏi vị tân tu sĩ trưởng những câu hỏi tiếp nối của mình: “Điều gì kết nối chúng ta với nhau, với thế giới của chúng ta và với vũ trụ? Thứ mang những lời cầu nguyện của chúng con ra khỏi cơ thể và giữ cho thế giới gắn kết là gì?” Ngài tu sĩ trưởng đã nhìn thẳng vào tôi khi người phiên dịch lặp lại câu hỏi của tôi bang tiếng Tây Tạng. Theo bản năng, tôi đã liếc người hướng dẫn, người đang là cầu nối cho toàn bộ buổi trò chuyện của chúng tôi. Tôi đã không chuẩn bị cho lời phiên dịch mà tôi nghe thấy đang đáp lại với tôi. “Lòng trắc ẩn” ông nói. “Vị geshe nói rằng lòng trắc ẩn là thứ kết nối chúng ta”.

“Làm sao có thể như thế được?” Tôi hỏi để tìm kiếm ý nghĩa rõ ràng trong những gì mà tôi đang nghe thấy. “Có phải ngài đang mô tả lòng trắc ẩn như một lực tự nhiên hay một trải nghiệm cảm xúc?” Một cuộc trao đổi sống động chợt nảy sinh khi người phiên dịch đưa câu hỏi của tôi cho vị tu sĩ trưởng. “Lòng nhân ái là thứ kết nối vạn vật” là câu trả lời cuối cùng của ông. Và mọi chuyện là thế đấy! Sau gần 10 phút đối thoại sâu sắc liên quan đến những yếu tố sâu xa nhất của Phật giáo Tây Tạng, tất cả những gì tôi nghe được là những từ đó!

 Vài ngày sau, tôi lại thấy mình lại tham gia vào cuộc trò chuyện tương tự, đưa ra câu hỏi y hệt với một vị cao tăng ở tu viện khác. Tuy nhiên, thay vì hình thức mà chúng tôi đã trải qua khi có sự hiện diện của vị tu sĩ trưởng, chúng tôi đang ở trong tiểu thất của vị tu sĩ – căn phòng nhỏ nơi ông ăn, ngủ, cầu nguyện và nghiên cứu khi ông không ở trong phòng tụng kinh lớn. Vào lúc này, người phiên dịch của chúng tôi đã trở nên quen với dạng thức câu hỏi của tôi và những gì tôi đang cố gắng để hiểu. Khi chúng tôi quây quần bên những ngọn đèn dùng bơ trâu yak trong căn phòng sáng lờ mờ, tôi ngước nhìn lên trần của căn phòng thấp. Nó được bao phủ bởi muội đen từ chính những ngọn đèn bơ trâu yak được đốt suốt vô số năm tháng đểsưởi ấm và chiếu sáng trong chính nơi mà chúng tôi thấy mình vào buổi chiều hôm đó.

Cũng giống như câu hỏi mà tôi đã đưa ra cho vị tu sĩ trưởng chỉ vài ngày trước đó, tôi đã hỏi tương tự (thông qua người phiên dịch) cho vị sư này: “Lòng trắc ẩn là một lực của sự sáng tạo hay nó là một trải nghiệm?” Mắt của vị sư hướng về lên trên trần nhà mà tôi chỉ nhìn vài giây trước đó. Ông thở ra một hơi thật sâu, ông đã suy nghĩ suốt một lúc, tập hợp trí tuệ của thứ mà ông đã học được kể từ khi bước chân vào các tu việncái tuổi lên 8. (Ông có vẻ hiện giờ đang ở giữa độ tuổi đôi mươi.) Đột nhiên, ông hạ thấp ánh mắt, nhìn vào tôi khi ông đáp lại. Câu trả lời ngắn gọn, đầy sức mạnh và cực kỳ hợp lý. “Nó là cả hai” chính là câu trả lời mà tôi đã được nghe từ vị thầy tu. “Lòng trắc ẩn vừa là một lực trong vũ trụ vừa là một trải nghiệm con người”.

Vào ngày hôm đó, trong một tiểu thất của vị thầy tu cách nửa vòng trái đất, ở độ cao gần 4500m so với mực nước biển và thậm chí cách thị trấn gần nhất đến vài giờ đi lại, tôi đã nghe được những lời trí tuệ giản dị đến nỗi rất nhiều tín ngưỡng phương Tây đã bỏ sót cho đến tận ngày nay. Vị thầy tu vừa chia sẻ bí mật về những gì kết nối chúng ta với mọi thứ trong vũ trụ cũng như phẩm chất khiến cảm nhận và cảm xúc của chúng ta trở nên mạnh mẽ đến vậy: Chúng là một và giống hệt nhau.

---O0O---

Đôi khi chúng ta tìm thấy trí tuệ đầy quyền năng tại những nơi mà chúng ta ít ngờ đến nhất.
LƯỢNG TỬ BIẾT NÓI: CẢM XÚC LÀ CHÌA KHÓA - GREGG BRADEN - MA TRẬN THẦN THÁNH

Trích: “Ma Trận Thần Thánh”

 Gregg Braden

Dịch: Nguyễn Tiến Hòa

Nhà Xuất Bản Dân Trí - Thiện Tri Thức -  2022

Ảnh: Internet

Bài viết liên quan