NIỀM TIN - ĐÁNH THỨC NGUỒN NĂNG LỰC VÔ HẠN - ANTHONY ROBBINS

NIỀM TIN

ĐÁNH THỨC NGUỒN NĂNG LỰC VÔ HẠN - ANTHONY ROBBINS

-----o0o-----

Ta hay nghĩ niềm tin là tín ngưỡng hay học thuyết như rất nhiều niềm tin về tín ngưỡng khác. Nhưng về một nghĩa rất cơ bản, niềm tin là một nguyên tắc dẫn đường, một phương châm, một đức tin hay lòng nhiệt huyết có thể cho ta ý nghĩa cuộc sống và định hướng của cuộc đời. Những kích thích vô tận luôn có quanh ta. Niềm tin là những bộ lọc được sắp xếp và tổ chức nhận thức của ta về thế giới. Niềm tin như những tổng hành dinh của não bộ. Khi tin một điều gì là sự thực, niềm tin đã ra lệnh cho não bộ. Mệnh lệnh ấy bắt buộc não bộ phải hình dung việc xảy ra như thế nào. Nghệ sĩ violoncello tin vào âm nhạc và nghệ thuật. Đó chính là những gì mang lại vẻ đẹp và sự cao thượng cho cuộc sống của ông. Mỗi ngày, nó vẫn mang đến phép lạ cho ông. Vì tin vào năng lực của nghệ thuật nên ông được tiếp thêm sức mạnh một cách thần bí. Niềm tin thay đổi ông mỗi ngày, từ một ông già mệt mỏi thành một thiên tài đầy sức sống. Theo một nghĩa sâu sắc nhất, nghệ thuật và âm nhạc đã mang lại sự sống cho ông.

Niềm tin mở cánh cửa đến với tinh hoa. Niềm tin đưa mệnh lệnh trực tiếp cho hệ thần kinh. Khi tin điều gì là chân lý, bạn thật sự có trạng thái tin tưởng hoàn toàn vào điều bạn cho là đúng. Niềm tin là nguồn năng lực mạnh mẽ nhất trong việc tạo ra những điều tốt đẹp trong cuộc sống. Ngược lại, niềm tin vào giới hạn hành động và suy nghĩ sẽ hủy hoại hành động. Niềm tin mang lại tâm trạng tràn đầy sức sống sẽ khiến con người mạnh mẽ hẳn lên. Những tôn giáo từng xuất hiện trong lịch sử đã mang lại sức sống cho hàng triệu con người, cho họ sức mạnh để làm việc họ tưởng họ không thể làm. Niềm tin giúp chúng ta khơi nguồn những năng lực phong phú nhất ẩn sâu trong con người, tạo ra và định hướng cho những nguồn năng lực ấy giúp thực hiện những mục tiêu mong muốn.

Thực tế không có một nguồn năng lực định hướng mạnh mẽ cho hành vi của con người nào lớn hơn niềm tin. về bản chất, lịch sử loài người là lịch sử của niềm tin. Các bậc thánh nhân từng thay đổi lịch sử như chúa Giêsu, thánh Mohammed, Copernicus, Columbus, Edison, hay Einstein đều thay đổi niềm tin của loài người. Để thay đổi hành vi của bản thân, hãy bắt đầu với niềm tin. Nếu muốn noi gương những người ưu tú, ta cần học cách có được niềm tin giống họ.

Ta hay nghĩ niềm tin là tín ngưỡng hay học thuyết như rất nhiều niềm tin về tín ngưỡng khác. Nhưng về một nghĩa rất cơ bản, niềm tin là một nguyên tắc dẫn đường, một phương châm, một đức tin hay lòng nhiệt huyết có thể cho ta ý nghĩa cuộc sống và định hướng của cuộc đời. Những kích thích vô tận luôn có quanh ta. Niềm tin là những bộ lọc được sắp xếp và tổ chức nhận thức...
NIỀM TIN - ĐÁNH THỨC NGUỒN NĂNG LỰC VÔ HẠN - ANTHONY ROBBINS

Càng biết nhiều về hành vi của họ bao nhiêu, ta càng biết nhiều hơn về thứ năng lực phi thường mà niềm tin mang lại cho cuộc sống, về nhiều khía cạnh, nguồn năng lực ấy bất chấp sự tồn tại các khuôn mẫu logic có trong mỗi người. Rõ ràng, trong lĩnh vực sinh lý học, niềm tin chi phối thực tế. Có một cuộc nghiên cứu về bệnh tâm thần phân liệt đã thành công rực rỡ cách đây không lâu. Một ca của bệnh viện tâm thần thuộc về một phụ nữ mắc chứng tâm thần phân liệt. Thông thường, tỉ lệ đường trong máu của bà bình thường. Nhưng khi bà một mực tin rằng mình bị bệnh tiểu đường, toàn bộ cơ chế sinh lý học thay đổi. Bà mắc bệnh tiểu đường thật. Niềm tin đã trở thành thực tế đối với trường hợp của bà.

Có một nghiên cứu cách làm người ốm yên lòng được thử nghiệm ở một nhóm bệnh nhân bị bệnh viêm loét có chảy máu. Họ được chia thành hai nhóm. Nhóm thứ nhất được chỉ dẫn rằng họ sẽ uống một thuốc mới giảm đau trực tiếp. Nhóm thứ hai được chỉ dẫn sẽ sử dụng loại dược phẩm đang trong thời gian thử nghiệm. Người ta biết rất ít về hiệu quả của loại dược phẩm này. Có 70% của người thuộc nhóm đầu tiên bớt đau đớn rõ rệt. Chỉ có 25% bệnh nhân thuộc nhóm thứ hai có được kết quả tương tự. Trong cả hai trường hợp, bệnh nhân đều nhận một loại thuốc như nhau. Những viên thuốc ấy chẳng có dược chất nào cả. Sự khác biệt duy nhất chính là hệ thống niềm tin họ đã thích ứng. Thậm chí còn có nhiều nghiên cứu đáng chú ý hơn: nhiều người uống dược phẩm gây hại nhưng họ không hề chịu tác dụng của bệnh tật khi được chỉ dẫn rằng: uống thuốc xong họ sẽ có được kết quả tích cực.

Những nghiên cứu của tiến sĩ Andrew Weil cho thấy: kinh nghiệm của những người sử dụng dược phẩm 50% tương thích gần đúng những gì họ mong đợi. Ông cho biết ông có thể khiến một người uống thuốc kích thích Amphêtamine có được cảm giác điềm tĩnh; hay một người uống thuốc an thần có cảm giác kích thích. Ông kết luận: “Điều kỳ diệu của dược phẩm nằm trong tâm trí của người sử dụng, chứ không phải ở bản thân dược phẩm”.

Trong các ví dụ trên, một điều bất biến tác động mạnh mẽ đến thành quả của niềm tin là: thông điệp thích hợp và dai dẳng được chuyển tới não bộ và hệ thần kinh. Bởi năng lực mạnh mẽ của niềm tin, không có gì khó hiểu hoặc ma thuật tham gia vào tiến trình này. Niềm tin chỉ là một trạng thái, một hình ảnh tưởng tượng trong tâm trí chi phối hành vi. Nếu tin vào thành công, bạn sẽ có thêm sức mạnh để đạt đến thành tựu như mong muốn. Nếu tin vào thất bại, những thông điệp ấy sẽ có xu hướng dẫn dụ bạn tới trải nghiệm thất bại. Nên nhớ: khi nói ta có thể làm được hoặc không thể làm được một việc gì, ta đã nói đúng. Cả hai loại niềm tin ấy đều có năng lực to lớn. Vấn đề là loại niềm tin nào là tốt nhất đối với ta và cách phát triển niềm tin đó ra sao?

Sự ra đời của tinh hoa bắt đầu với ý thức rằng: niềm tin của ta là do ta chọn lựa. Thông thường, ta không nghĩ theo cách ấy. Nhưng niềm tin hoàn toàn có thể là một lựa chọn có ý thức. Tôi có thể lựa chọn niềm tin giới hạn khả năng của mình. Ngược lại, bạn cũng có thể lựa chọn những niềm tin hỗ trợ cho mình. Điều cần thiết là phải chọn niềm tin dẫn đến thành công và mục tiêu đề ra. Đồng thời loại bỏ niềm tin ngăn trở bản thân. Thông thường, người ta hay hiểu lầm về niềm tin, cho đó là một khái niệm về tri thức và ở trạng thái tĩnh, một hiểu biết xa lạ với hành động và kết quả. Nhưng sự thật vẫn là sự thật. Niềm tin là cánh cửa dẫn con người tới tinh hoa thực sự vì niềm tin không có gì quá xa lạ.

Chính niềm tin quyết định việc ta tận dụng được khả năng tiềm tàng của mình tới đâu. Niềm tin có thể khơi nguồn hay cản trở dòng ý tưởng và sáng kiến. Hãy hình dung hoàn cảnh sau đây, một người nói với bạn rằng: “Cảm phiền cho xin lọ muối”. Bạn sang phòng bên cạnh. Lát sau bạn nói: “Có thấy muối đâu cơ chứ!”. Sau khi tìm kiếm, bạn lại la lớn: “Tôi không thấy muối đâu cả”. Người kia đứng lên thấy hũ muối ngay trên kệ trước mặt bạn. “Này, không nhìn thấy sao? Hũ muối ngay ở đây, trước mặt anh. Nếu là rắn hổ mang, nó đã nhảy bổ vào anh từ lâu!”. Khi nói “tôi không thể”, bạn đã gửi tới não bộ mệnh lệnh: nhất định không nhìn thấy hũ muối. Trong môn tâm lý học, chúng tôi gọi đó là schotoma. Hãy nhớ: mỗi trải nghiệm, mỗi điều bạn nói, nhìn, nghe, cảm nhận, ngửi thấy hoặc nếm được đều được lưu vào não bộ. Khi nói “không thể nhớ”, bạn đã nói đúng. Khi nói “có thể nhớ”, bạn đã gửi tới hệ thần kinh lệnh mở ra những con đường tới một phần của não bộ có chứa giải pháp bạn cần.

“Họ làm được vì họ tin mình làm được”._ Virgil_

-----o0o-----

Trích “Đánh Thức Nguồn Năng Lực Vô Hạn”

Tác giả: Anthony Robbins

Người dịch: Tuyết Minh

NXB Từ điển Bách khoa.

Bài viết liên quan