TÁNH NGHE - Nguyễn Thế Đăng

TÁNH NGHENguyễn Thế ĐăngTánh nghe được giảng nhiều trong Kinh Lăng Nghiêm. Sau đây, chúng ta sẽ dùng vài đoạn Kinh Lăng Nghiêm để tìm hiểu và nhận biết tánh nghe.  1/Sự hiện hữu của tánh nghe Một trong những thí dụ chứng minh có sự hiện hữu, thậm chí thường trực, của tánh nghe, được Đức Phật chỉ dạy trực tiếp cho ngài A Nan: “Nay ta thử đem các việc thế gian để giải trừ cái...
TÁNH NGHE - Nguyễn Thế Đăng

TÁNH NGHE

Nguyễn Thế Đăng

Tánh nghe được giảng nhiều trong Kinh Lăng Nghiêm. Sau đây, chúng ta sẽ dùng vài đoạn Kinh Lăng Nghiêm để tìm hiểu và nhận biết tánh nghe.

 

1/Sự hiện hữu của tánh nghe

Một trong những thí dụ chứng minh có sự hiện hữu, thậm chí thường trực, của tánh nghe, được Đức Phật chỉ dạy trực tiếp cho ngài A Nan: “Nay ta thử đem các việc thế gian để giải trừ cái nghi của ông”.

Đức Phật bảo La Hầu La đánh một tiếng chuông và hỏi A Nan có nghe không. A Nan và đại chúng đều nói: Dạ, có nghe. Khi tiếng chuông dứt, được hỏi có nghe không, A Nan và đại chúng trả lời: Thưa, không có nghe.

Đánh chuông lần hai, rồi lần ba, khi còn tiếng chuông, tất cả đã trả lời là có tiếng. Tiếng chuông dứt, tất cả trả lời là không có tiếng.

Bấy giờ Đức Phật nói:

A Nan, tiếng dứt không còn vang, ông nói là không nghe. Nếu thật không nghe thì tánh nghe đã diệt, đồng như cây khô, thì khi tiếng chuông lại được đánh lên, làm sao ông còn nghe được?

Biết rằng có biết rằng không, đó là tiếng của trần hoặc có hoặc không, chứ tánh nghe này đâu có vì ông mà thành có thành không. Tánh nghe mà quả thật không có thì cái gì biết là không có tiếng? Thế nên, A Nan, trong cái nghe, cái tiếng tự có sanh có diệt, chẳng phải vì ông nghe tiếng sanh tiếng diệt mà khiến cho tánh nghe của ông thành có thành không”.

Tiếng thì có sanh có diệt, do đó cái nghe của tai thành ra khi có khi thì không. Nhưng tánh nghe thì thường trực, có tiếng thì nghe, không có tiếng vẫn nghe, nghe cái không có tiếng.

 

Để rõ hơn, chúng ta trích từ kinh nghiệm trực tiếp của các thiền sư. Trong tự truyện của Đại sư Hám Sơn (1545-1623) viết:

Vào năm 1575 tôi ba mươi ba tuổi. Hồi mới bắt đầu kỳ thiền này, khi nghe tiếng gió hú và tiếng băng đập vào núi, tôi rất xao động, như là tiếng hàng ngàn quân và ngựa đánh trận. Tôi hỏi Diệu Phong, sư đáp: “Tất cả xúc tình phát xuất từ tâm, không phải ở ngoài tới. Ông không nghe các bậc cổ đức nói, ‘Ba mươi nghe tiếng nước chảy mà không chuyển ý căn thì thế nào cũng chứng Quan Âm viên thông’. Tôi bèn lên một cầu gỗ chơ vơ ngồi thiền mỗi ngày. Thoạt đầu tôi nghe tiếng suối chảy rất rõ, dần dần tôi chỉ nghe được khi muốn nghe. Nếu tâm động, tôi còn nghe, tâm tịnh thì chẳng nghe gì. Một hôm trong khi ngồi thiền trên cầu, tôi quên là mình có thân. Nó đã biến mất cùng những âm thanh chung quanh. Từ đó tôi không còn bị tiếng động nào quấy nhiễu nữa”.

Khi không nghe tiếng nào mà vẫn biết là không nghe tiếng, cái biết không có tiếng ấy là tánh nghe, hay nói theo Kinh Lăng Nghiêm là “nghe cái không nghe, không có tiếng”.

 

Thiền sư Thái Lan Ajahn Chah (1918-1992) nói:

Rồi tôi hiểu: Khi tâm hợp nhất trong thiền định, nếu bạn hướng chú ý ra ngoài, bạn có thể nghe tiếng động, nhưng nếu bạn để nó trụ trong sự trống không của nó, nó hoàn toàn vắng lặng…

Từ trạng thái tâm thức bình thường tôi tiếp tục thiền, tâm lại đi sâu vào trong. Lần này toàn thể vũ trụ vỡ tan thành những mảnh li ti. Trái đất, núi non, đồng ruộng… tất cả mọi thứ trong thế giới phân hủy thành những nguyên tử của không gian. Con người biến mất, mọi sự đều biến mất, hoàn toàn không có gì tồn tại nữa.

Tâm, sau khi đi vào trong, trụ lại đó một thời gian, chỉ sau một thời gian dài nó mới ra khỏi trạng thái đó. Tâm tự làm tất cả. Tôi chỉ là người quan sát, người chứng kiến”.

Thiền định là tâm đi vào trong, đến mức không thấy gì, không nghe gì, mọi sự đều biến mất, nhưng lúc ấy vẫn có cái biết, không phải là cái biết của ý thức phân biệt, cái biết rằng không nghe gì cả. Cái biết rằng không nghe gì cả, nghe cái không nghe, là tánh nghe, hay chính xác là tánh biết biểu lộ qua cái nghe. Sở dĩ các kinh điển Bắc tông gọi là tánh, vì nó là “người quan sát, người chứng kiến”, không lệ thuộc, dính dáng gì đến đối tượng âm thanh hay hình sắc, hay là các tướng.

Kinh nói tánh giác chia thành cái biết ở sáu căn. Ở mắt gọi là tánh thấy, ở tai gọi là tánh nghe, ở mũi gọi là tánh ngửi… nhưng tất cả sáu căn đồng một nguồn tánh giác. Nguồn ấy được gọi là “tinh minh”: tinh là tinh tuý, hay bản tánh; minh là ánh sáng, sáng tỏ. Nguồn thanh tịnh và sáng chiếu này được các Kinh khác gọi là bản tánh của tâm, bản tâm.

Một căn đã về nguồn

Sáu căn thành giải thoát…

Xoay nghe, gốc lòa trừ 

Trần tiêu, Giác viên tịnh

Tịnh tột, quang thông suốt

Lặng chiếu trùm hư không…

Sáu căn cũng như thế

Vốn y một tinh minh

Phân thành sáu hòa hợp

Một căn đã về nghỉ

Sáu dụng đều chẳng thành…

 

Bồ tát Quán Thế Âm là vị đã thực hiện hóa hoàn toàn tánh nghe này. Cho nên không những danh hiệu ngài đồng nghĩa với tánh nghe, mà trong Kinh Lăng Nghiêm khi Đức Phật bảo Bồ tát Văn Thù chọn căn nào để thực hành có nhiều hiệu quả, ngài đã chọn Nhĩ căn viên thông của Bồ tát Quán Thế Âm.

 

2/ Kinh nghiệm tánh nghe

Sau đây là Bồ tát Quán Thế Âm kể lại sự thực hành để chứng ngộ hoàn toàn tánh nghe, hay Nhĩ căn viên thông như sau:

Bấy giờ Bồ tát Quán Thế Âm liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ dưới chân Phật và thưa rằng: Bạch Thế Tôn, con nhớ hằng sa kiếp về trước có Phật ra đời hiệu là Quán Thế Âm, từ Đức Phật ấy con phát tâm Bồ đề. Đức Phật ấy dạy con từ Văn (Nghe), Tư (Suy nghĩ) và Tu (Thực hành), nhập vào tam ma đề.

Ban đầu ở trong cái nghe, vào dòng mất đối tượng được nghe (sở). Cái được nghe và chỗ vào đã vắng lặng, hai tướng động tĩnh rõ ràng chẳng sanh. Như vậy dần dần tăng tiến thêm, cái nghe (chủ thể nghe, năng) và cái được nghe (đối tượng được nghe, sở) đều hết.

Chẳng dừng lại nơi hết cái nghe và cái được nghe thì cái năng giác và sở giác đều Không. Không và giác cùng tột tròn vẹn thì năng Không và sở Không đều diệt.

Sanh diệt đã diệt, tịch diệt hiện tiền. Tức thì vượt khỏi thế gian lẫn xuất thế gian, tròn sáng khắp mười phương, được hai điều tột bậc: Một là trên hợp với Bản Giác Diệu Tâm của mười phương chư Phật, cùng với chư Phật đồng một lực Từ; hai là, dưới hợp với tất cả mười phương chúng sanh sáu nẻo, cùng với các chúng sanh đồng một Bi ngưỡng”.

Đây là công phu xoay lại cái nghe có chủ thể nghe và âm thanh được nghe để đi sâu vào tánh nghe không còn chủ thể và đối tượng.

Đại chúng và A Nan!

Xoay cơ nghe điên đảo

Xoay nghe, nghe tự tánh

Tánh thành: vô thượng đạo.

Viên thông thật như vậy

Đây một đường Niết bàn

Của hằng sa chư Phật.

Khi đi sâu vào cái nghe để đến tận tánh nghe, mọi phân hai năng giác và sở giác, năng Không và sở Không đều dứt, chỉ còn một tánh nghe hay tánh giác trùm khắp.

Đó là sự đi từ tướng vào tánh: “Mười hai là tiêu dung hình tướng trở lại thành tánh nghe, là đạo tràng bất động, thâm nhập thế gian mà không hoại thế gian…

Mười ba là sáu căn viên thông, sáng chiếu tất cả không hai, trùm khắp mười phương cõi, thành đại Viên Cảnh Không Như Lai tạng…

Tóm lại có thể tóm tắt sự thực hành là không chạy theo các âm thanh, mà xoay lại cái nghe để nghe vào tánh nghe luôn luôn có mặt:

Tánh nghe chẳng nhân duyên

Nhân thanh có danh tự

Xoay nghe thoát khỏi tiếng

Giải thoát đâu có danh

Một căn đã về nguồn

Sáu căn thành giải thoát…

Xoay nghe, nghe tự tánh

Tánh thành: vô thượng đạo.

Và tánh nghe hay tánh giác, hay bản tánh của tâm, là tánh Không-Minh và Từ Bi, như đoạn kể của Bồ tát Quán Thế Âm ở trên.

 

Khi thành tựu tánh nghe thì “cái thấy, nghe, hay, biết hợp nhất với Thường Lạc Ngã Tịnh của Như Lai. Sáng tỏ tinh thuần, tất cả các biến hiện không còn là phiền não, đều hợp với diệu đức thanh tịnh Niết bàn”.

 

3/ Vài câu chuyện về Khai Thị Ngộ Nhập tánh nghe.

Có nhà sư hỏi Hòa thượng Huyện Tỉnh về công án ‘Cây bách trước sân’ của ngài Triệu Châu.

Hòa thượng nói: Ta không từ nan mà nói với ông, nhưng liệu ông có tin không?

Nhà sư nói: Lời của Hòa thượng con đâu dám không tin.

Hòa thượng nói: Ông có nghe tiếng giọt mưa rơi từ đầu mái nhà chăng?

Nhà sư hoát nhiên tỏ ngộ, bất giác la lên, ‘Chao ôi!’

Ngài bảo: Ông thấy đạo lý gì? Nhà sư dùng kệ đáp:

Giọt mưa đầu mái

Rõ ràng rành rẽ!

Phá nát càn khôn

Ngay đó tâm dứt.

Khi tâm thức đã được chuẩn bị đầy đủ, đã chín muồi, một âm thanh bình thường có thể đánh thức sự nhận ra tánh nghe.

 

Patrul Rinpoche (1808-1887) một thành tựu giả Đại Toàn Thiện Tây Tạng, một buổi chiều ở trên núi với đại đệ tử là Nyoshul Lungtok. Họ cùng thực hành namkhai naljor, yoga như hư không, nằm trên đất, nhìn bầu trời đầy sao. Patrul Rinpoche hỏi:

- Con có thấy những ngôi sao trên trời không?

- Dạ có.

- Con có nghe tiếng chó sủa dưới tu viện Dzogchen không?

- Dạ có.

- Con có nghe ta đang nói với con không?

- Dạ có.

- Vậy đó, bản tánh của tâm, tất cả Đại Toàn Thiện chỉ là thế đấy.

Nyoshul kể lại,ngay lúc ấy, tôi chứng ngộ rằng tất cả đều bao gồm ở bên trong, chẳng phải cái gì ngoài. Tánh giác Rigpa, tâm Phật nguyên sơ là vốn sẳn ở bên trong. Mọi sự là trò phô diễn của Rigpa, tánh giác vốn sẳn đủ từ xưa nay.

Qua câu chuyện này cho thấy tánh nghe là một hiện hữu thường hằng nơi mỗi con người, chỉ cần tịnh hóa tâm thức và lời khai thị đúng lúc của thầy thì thấy ra nó.

 

Sư Đông Sơn đến Thiền sư Vân Nham, hỏi rằng: Vô tình thuyết pháp, kẻ nào được nghe?

Thiền sư đáp: Vô tình được nghe.

Hỏi: Vì sao tôi chẳng nghe?

Thiền sư Vân Nham dựng đứng phất tử, nói: Lại nghe chăng?

Đáp: Chẳng nghe.

Thiền sư nói: Ta thuyết pháp, ông còn không nghe huống là vô tình thuyết pháp.

Hỏi: Vô tình thuyết pháp, kinh nào nói?

Thiền sư Vân Nham nói: Há chẳng thấy kinh A Di Đà nói, ‘chim, nước, cây cối, thảy đều niệm Phật, niệm Pháp, cây cỏ vô tình hòa tấu vui ca sao?’.

Sư Động Sơn ngay đó tỉnh ngộ, bèn nói bài tụng:

Thật lạ lùng, thật lạ lùng!

Vô tình thuyết pháp, chẳng nghĩ bàn

Nếu đem tai ngóng càng không hiểu

Nhãn xứ nghe thanh mới tỏ thông”.

Vô tình thuyết pháp là “tiếng vỗ của một bàn tay”, công án của Thiền sư Nhật Bản Bạch Ẩn Huệ Hạc (1685-1768)

Lại có thiền sư Báo Từ lên tòa giảng, nghe chim tu hú kêu, bèn hỏi nhà sư: ‘Tiếng gì thế?’

Sư đáp: Tiếng chim tu hú.

Thiền sư nói:

Nếu muốn không mời vô gián nghiệp

Chớ báng Như Lai chánh pháp luân”.

 

Thiền sư Bổn Tịnh có bài kệ:

Thấy, nghe, hay, biết, không chướng ngại

Sắc, hương, vị, xúc, thường Tam muội

Như chim trong không, chỉ thế bay

Không nắm, không bỏ, không thương ghét

Nếu rõ ứng xứ chẳng phải tâm

Mới được gọi là Quán Tự Tại”.

 

 

Bài viết liên quan