NHẤT THỪA - KINH THẮNG MAN

“Khai phương tiện” theo sự giải thích của Quang Trạch Pháp Vân đời nhà Lương thì có nghĩa khai trừ. Tín là chánh trực xả bỏ phương tiện, chỉ nói Vô thượng đạo. Bởi vì có hạng người tâm thiên chấp quá sâu dày, nên không triệt để phá trừ không được. Trong khi đó Bồ Tát tu hành chưa thành Phật quả vẫn không tự chấp Bồ Tát hạnh là cứu cánh. Vì vậy ở đây nói khi nào còn hai thì...
NHẤT THỪA - KINH THẮNG MAN

NHẤT THỪA

KINH THẮNG MAN 

---*---

Nói đến Nhất thừa, xưa nay tranh luận về Nhất thừa cũng lắm người lợi dụng danh từ này để biện minh, đề cao cách tu hành của mình cũng nhiều. Ngoài ba thừa thì Đại thừa tức Nhất thừa, hay còn có thừa nào nữa? Ở Trung Hoa, từ Ngài Quang Trạch Pháp Vân, Thiên Thai Trí Giả đến nay đều có khuynh hướng như sau: Luận về Nhất thừa, nhất thì không phải là hai. Nghĩa là chỉ duy nhất không có hai, nên gọi là Nhất, Thừa tức là ngồi xe, xe chở, vận chuyển tự tại. Đây là dụ cho Phật pháp có khả năng chuyên chở chúng sanh từ sông mê biển khổ đến bến bờ giác ngộ an vui Niết bàn, lìa ba cõi luân hồi sanh tử khổ. đến biển nhất thiết trí huệ công đức. Trong Phật pháp, có chỗ nói năm thừa, tức là Nhơn thừa, Thiên thừa, Thanh văn thừa, Duyên giác thừa, Bồ Tát thừa. Có chỗ nói ba thừa, tức là Thanh văn thừa, Duyên giác thừa và Bồ Tát thừa. Có chỗ còn gọi Bồ Tát thừa là Đại thừa. Nay đây nói Nhất thừa tức là chỉ riêng nói về Nhất thừa chứ không phải phải Ngũ thừa hay Tam thừa, Thanh văn thừa và Duyên giác thừa không phải là thừa cứu cánh, nên hành giả chứng đắc Niết bàn của hai thừa này chẳng phải chân thật Vô dư Niết bàn. Vô dư Niết bàn là dứt sạch phiền não, đoạn sạch phân biệt ngã chấp, pháp chấp, tâm cảnh đạt đến an lạc rốt ráo. Chân thật cứu cánh Niết bàn, tức là Phật quả. Nên Nhất thừa tức là Nhất Phật thừa, Để giản biệt Thanh văn thừa, Duyên giác thừa, phủ định sự cứu cánh của hai thừa này mà nói Nhất thừa, điều này là ý đương nhiên, không phải có sự tranh cãi. Nhưng Nhất thừa chính là Đại thừa trong Tam thừa, tức là vô nhị duy nhất Đại thừa phải không? Hay là ngoài ba thừa Thanh văn, Duyên giác, Bồ tát còn có Nhất thừa? Vấn đề này có nhiều cách nói khác nhau. Kỳ thật, nói nhất là đối với nhị hoặc tam, nên có nhất, đó chỉ là phương tiện chứ thật ra có một. Như trong tay chỉ có một trái vải, chứ không có hai, ba. Kinh Pháp Hoa nói: “Đây chỉ có một sự thật, nếu hai sự thật thì không phải là chơn”. Nhưng cũng có thể nói luôn cả ba quả cũng chẳng có mà chỉ có một quả duy nhất. Lúc ban sơ thì nói có ba, đến khi mở tay ra thì chỉ có một quả. Như Kinh Pháp Hoa nói: “Chỉ có duy nhất một Phật thừa, không có thừa nào khác, nhưng vì chúng sanh mà nói pháp, hoặc hai, hoặc ba thừa”. Do đây chúng ta thấy, giản lược ba mà nói một, giản lược hai nói một, căn bản giống nhau, vẫn không có sự mâu thuẫn nào. Vì vậy, bất luận nói là vô nhị duy nhất hoặc nói vô tam duy nhất, tinh thần Đại thừa quán triệt thỉ chung, tức là Nhất thừa. Đây chẳng qua là căn cứ vào sự tu hành của Bồ Tát mà nói, thì đều gọi là Đại thừa. Nếu giản biệt quả vị không cứu cánh của Thanh văn, Duyên giác mà nói, thì chỉ có Phật quả mới là cứu cánh, gọi là Nhất thừa, cũng tức là Đại thừa. Vì vậy, Kinh Pháp Hoa chuyên nói Nhất thừa, lại cũng nói: “Phật trụ Đại thừa”. Đại thừa và Nhất thừa có thể thấy rõ qua đồ biểu dưới đây: Nói về Nhị thừa, Tam thừa thì lược có hai nghĩa. Một là phá nhị để thuyết minh nhất. Tức là khi Phật nói pháp Thanh văn, Duyên giác thì có hạng người liền chấp cho rằng chứng Niết bàn Nhị thừa này là cứu cánh, không muốn phát Bồ đề tâm tiến lên Phật thừa nữa. Vì để thuyết minh pháp Nhị thừa chẳng phải là pháp cứu cánh, nên Đức Phật khai bày pháp môn phương tiện để hiển bày tướng chơn thật. “Khai phương tiện” theo sự giải thích của Quang Trạch Pháp Vân đời nhà Lương thì có nghĩa khai trừ. Tín là chánh trực xả bỏ phương tiện, chỉ nói Vô thượng đạo. Bởi vì có hạng người tâm thiên chấp quá sâu dày, nên không triệt để phá trừ không được. Trong khi đó Bồ Tát tu hành chưa thành Phật quả vẫn không tự chấp Bồ Tát hạnh là cứu cánh. Vì vậy ở đây nói khi nào còn hai thì không phải là chơn, chẳng phải Bồ Tát thừa. Hai là hợp tam quy nhất. Có nghĩa là thành Phật không nhất định phải trải qua Nhị thừa, nhưng quả vị Thanh văn Duyên giác là phương tiện tiên khởi của Nhất thừa Phật quả. Kinh Pháp Hoa nói: “Năm trăm do tuần, Thanh văn Duyên giác đi được ba trăm do tuần đến hóa thành. Nơi đây tuy chưa đạt đến mục đích, nhưng đã đi được ba trăm do tuần cũng là hơn nửa phần đường đến bảo thành Phật quả”. Do đó, cần nhận thức rõ Nhị thừa chưa phải là cứu cánh. Thế nên, quá khứ sở hành, sở chứng của Tiểu thừa quả đều là phương tiện để rồi hội nhập Nhất thừa, thành Phật quả. Vì vậy, Kinh Pháp Hoa nói: “Các ông sở hành là Bồ Tát đạo”. Có nghĩa là, quả thừa Thanh văn Duyên giác không làm mất cái nhơn hạnh của Nhất thừa. Vì vậy, nên gọi là hồi tiểu quy đại, hội tam nhị quy nhất. Tức là rõ tiểu đạt đại, suốt ba hai để quy về một. Đức Phật khiến cho hàng Nhị thừa biết rõ Nhị thừa là pháp phương tiện của Nhất thừa, nên làm. Với Bồ Tát thừa, người mới tu học Bồ Tát hạnh cũng hiểu lầm cho rằng Bồ Tát đích thực là cứu cánh của Tam thừa. Lại có người thấy tu Bồ Tát hạnh khó làm, nên lại muốn thối tâm, tu chứng Tiểu thừa là đủ. Nếu biết Nhị thừa không phải là chân thật, cứu cánh; Tam thừa đồng quy Nhất thừa, thì tâm không thối đọa. Nếu hiểu theo tinh thần đây cũng có thể nói là hiểu được lý Tam thừa Phật nói để rồi đồng quy Nhất thừa. Tóm lại, trọng tâm của Nhất thừa là ở chỗ thuyết minh rõ lý Nhị thừa chẳng phải chơn, đồng thời hiển bày Như Lai quả đức. Đại thừa quán triệt nhơn, hạnh, quả, đức, mà căn cứ từ nhơn, hạnh của Bồ Tát để trắc nghiệm độ lượng.

---*---

Trích "Kinh Thắng Man"

Việt Dịch HT.Đức Niệm

Xuất bản Tôn giáo, Hà Nội 2003

 

Bài viết liên quan