RỜI TIỀN TRẦN MÀ CÓ TÁNH PHÂN BIỆT TỨC THẬT LÀ TÂM - KINH THỦ LĂNG NGHIÊM GIẢNG KÝ

RỜI TIỀN TRẦN MÀ CÓ TÁNH PHÂN BIỆT TỨC THẬT LÀ TÂM

KINH THỦ LĂNG NGHIÊM GIẢNG KÝ

Dịch bản Kinh: H.T Thích Phước Hảo

Giảng: H.T Thích Thông Phương

-----o0o-----

Trước khi chỉ rõ ra, Phật nhắc lại Ngài từng nói các pháp sanh ra đều từ tâm hiện, nghĩa là không có pháp nào ngoài tâm mà có hết. Như vậy tâm là gốc của tất cả pháp thì đâu thể nói không có tâm được. Ngài dẫn: “Trong thế giới này, tất cả nhân quả lớn như thế giới, nhỏ như vi trần đều nhân nơi tâm mà thành thể”. Tức là nhân nơi tâm mà nhận biết có “thể” của nó. Thể...
RỜI TIỀN TRẦN MÀ CÓ TÁNH PHÂN BIỆT TỨC THẬT LÀ TÂM - KINH THỦ LĂNG NGHIÊM GIẢNG KÝ

CHÁNH VĂN:

“Bấy giờ Đức Thế Tôn sắp chỉ dạy ông A-nan và đại chúng, khiến cho tâm vào Vô sanh pháp nhẫn, nên ở trên tòa sư tử xoa đầu ông A-nan mà bảo rằng: “Như Lai thường nói: “Các pháp sanh ra chỉ từ tâm hiện”. Tất cả nhân quả thế giới vi trần, nhân nơi tâm mà thành thể. Này A-nan! Như tất cả sự vật có ra trên thế giới, trong ấy từ ngọn cỏ, lá cây, sợi dây và cái gút, tìm nguồn cội của nó đều có thể tánh, dầu cho hư không cũng có tên gọi và tướng mạo, huống chi Tâm Thanh Tịnh Sáng Suốt Nhiệm Mầu này là tâm tánh của tất cả mà tự không thể tánh hay sao?

Nếu ông chấp chặt cái phân biệt hiểu biết quyết cho là tâm, thì tâm này khi rời tất cả các trần sắc, hương vị, xúc riêng có toàn tánh. Như nay ông nương nơi nghe pháp của Tôi, đây ắt là nhân nơi tiếng mà có phân biệt. Dầu cho dứt hết tất cả cái thấy nghe hiểu biết, chỉ giữ cái thầm thầm lặng lẽ bên trong thì vẫn còn là việc phân biệt bóng dáng của pháp trần.

Chẳng phải Tôi bảo ông chấp là chẳng phải tâm, nhưng ông đối với tâm này phải chín chắn xét cho kỹ. Nếu rời tiền trần mà có tánh phân biệt, tức thật là tâm ông. Nếu tánh phân biệt rời tiền trần không có thật thể thì đó là việc bóng dáng phân biệt của tiền trần. Trần thì chẳng phải thường trụ, nếu khi nó biến diệt thì tâm này đồng với lông rùa sừng thỏ, ắt Pháp thân của ông cũng đồng với đoạn diệt. Vậy ông lấy cái gì để tu chứng Vô sanh pháp nhẫn?”

GIẢNG GIẢI:

Ở trước, Ngài A-nan chấp cái hay suy nghĩ làm tâm, bị Phật quở mới cầu Phật chỉ dạy tâm thật. Đức Phật chỉ dạy con đường khiến thể nhập vào Vô sanh pháp nhẫn, là nhận rõ các pháp không sanh không diệt, tâm an trụ bất động, không bị cảnh chuyển. Nếu vào được Vô sanh pháp nhẫn thì đối với các pháp, tâm không động.

Trước khi chỉ rõ ra, Phật nhắc lại Ngài từng nói các pháp sanh ra đều từ tâm hiện, nghĩa là không có pháp nào ngoài tâm mà có hết. Như vậy tâm là gốc của tất cả pháp thì đâu thể nói không có tâm được. Ngài dẫn: “Trong thế giới này, tất cả nhân quả lớn như thế giới, nhỏ như vi trần đều nhân nơi tâm mà thành thể”. Tức là nhân nơi tâm mà nhận biết có “thể” của nó. Thể tánh có thể nhận biết được, không phải hoàn toàn không. Ông không phải sợ không có tâm. Phật nói điểm này cho Ngài A-nan hết sợ.

Và trước khi nói, Phật ở trên tòa sư tử xoa đầu ông A-nan ngầm an ủi đừng sợ không có tâm, rồi Phật chỉ ra từng bước, từng bước rõ ràng.

Phật bảo: “Lớn như thế giới, nhỏ như vi trần, cho đến những sự vật như lá cây, cọng cỏ đều có thể tánh, dầu cho hư không cũng có tên gọi, có tướng mạo, huống chi tâm thanh tịnh sáng suốt này là gốc của tất cả những thứ đó mà lại không có hay sao? Cho nên ông đừng sợ không có tâm. Nhưng ông phải hết sức sáng suốt, chín chắn để nhận rõ cái gì là tâm thật. Đó mới là quan trọng.

Hồi nãy, ông nói con dù làm lành, làm dữ, làm tội, làm phước cũng dùng cái tâm này thôi, ngoài cái này không có gì nữa. Vậy là ông quyết cho cái tâm phân biệt hiểu biết này là tâm ông. Nếu nó thật là tâm ông thì nó phải luôn luôn không mất dù khi có các trần ở trước, hay là không có các trần ở trước vẫn không mất tánh biết. Nếu nó chỉ nương theo các trần, không có trần, nó không biết thì đâu còn là tâm ông nữa”.

Đến đây Phật không bác là không có tâm nhưng khuyên phải chín chắn nhận cho kỹ. Nếu thật là tâm ông thì dù có trần hay không trần, nó cũng phải vẫn không mất cái tánh biết của nó.

Phật nói: “Như ông nghe pháp đây, là ông nhân nơi âm thanh mà có phân biệt hiểu biết. Đó là cái tâm phan duyên. Dù cho ông có thể dứt hết những cái phân biệt hiểu biết đối với các trần bên ngoài, tức là năm trần ở bên ngoài: sắc, thanh, hương, vị, xúc, nhưng ông còn giữ cái thầm thầm phân biệt bên trong thì đó cũng là sự phân biệt những bóng dáng tiền trần lưu lại, chứ chưa phải nó riêng tự phân biệt”.

Nó cũng còn lệ thuộc vô bóng dáng của pháp trần, chứ chưa phải tự nó biết. Chỗ này không khéo cũng còn bị lầm. Nó không phân biệt trực tiếp với các trần bên ngoài nhưng còn phân biệt những bóng dáng của trần lưu lại bên trong, tức còn gián tiếp. Như vậy, nếu mất những bóng dáng kia thì nó hết phân biệt, hết biết. Thành ra nó chưa phải thật là tâm thanh tịnh nhiệm mầu sáng suốt của ông.

Còn cái tướng bóng dáng là có chỗ bị người dòm thấy. Giống như Quốc sư Huệ Trung hai lần đầu do còn bóng dáng trong đầu nên ông Đại Nhĩ Tam Tạng thấy. Đến lần thứ ba ông Đại Nhĩ Tam Tạng không thấy mới đúng thật là tâm của Quốc sư. Chính chỗ ông Đại Nhĩ Tam Tạng không thấy cũng là chỗ quỷ thần không thấy được. Đó mới thật là tâm ông.

Đây, Phật chỉ ra chỗ thấy chân và vọng. Phật bảo: “Tôi không bảo ông chấp nó không phải tâm ông, nhưng ông phải chín chắn xét kỹ. Nếu rời tiền trần mà nó vẫn có tánh phân biệt thì đó mới thật là tâm ông. Còn nếu cái tánh phân biệt này rời tiền trần không có thật thể thì đó chỉ là việc bóng dáng phân biệt của tiền trần. Trần thì không thường trụ, khi có khi không. Nếu khi nó biến diệt thì tâm này của ông đồng với lông rùa, sừng thỏ rồi. Lúc đó Pháp thân của ông cũng đồng đoạn diệt hay sao? Vậy thì ông lấy gì để tu chứng Vô sanh pháp nhẫn”.

Như vậy, Phật không bác bỏ tâm phân biệt, bởi vì nó không rời ngoài tâm thể mà riêng có được. Cũng giống như sóng và nước. Khi nổi sóng lên thì nó giống như có sanh có diệt, nhưng sóng cũng không rời khỏi nước mà riêng có sóng. Tâm phân biệt này cũng không rời tâm thể mà riêng có được. Nhưng khi nó phân biệt rồi, nó quên mất cái thể chính của nó. Mê là ở chỗ đó.

Nếu thật là tâm của ông thì nó phải tự biết, không phải nhờ tiền trần mới biết. Nhờ tiền trần mới biết tức là nhờ cái khác mới biết, thành ra nó không có thật thể rồi. Như vậy tức là sống nhờ, thành ra của ai, không phải của ông. Nếu thật là ông, tại sao phải nhờ cái khác? Trần thì lúc có lúc không, có khi có đối trước, có khi không đối trước, nó không phải thường trụ. Vậy nếu tâm ông hoàn toàn lệ thuộc nơi trần, thì sẽ biến đổi theo trần, diệt mất theo trần, trần diệt thì tâm ông cũng thành diệt theo hay sao? Lúc đó ông cũng đồng như lông rùa, sừng thỏ rồi, vậy Pháp thân ông cũng thành đoạn diệt luôn sao?! Nếu như vậy, khi ông chứng Vô sanh pháp nhẫn thì cái gì chứng? Đó là chỗ lầm mê của ông và chúng sanh từ xưa nay mà không hay biết. Phật chỉ rất rõ ràng chân, vọng. Bao nhiêu đó mình hiểu rõ rồi thì hết còn lầm chân vọng.

Như thông thường nói mặt trăng thứ hai, nhưng sự thật thì không có mặt trăng thứ hai. Bởi vì mặt trăng thì vẫn là một, không có mặt trăng thứ hai nào cả. Mặt trăng thứ hai chỉ là bóng thôi, không có thật thể. Cũng vậy, tâm thì vẫn một tâm, không có tâm vọng. Nói tâm vọng là tùy theo ngôn ngữ thế gian mà tạm nói có tâm vọng. Nếu y theo thật tướng mà nói thì tâm là một thôi, không có vọng. Vọng tức là không có thật thể, không thật thể tức là không có cái thứ hai. Hiểu vậy thì thấy rõ ngay vọng tức là chân. Ngay vọng ngộ vọng tức là chân, mê chân tức là vọng, không có cái thứ hai chen vào.

Học rồi mới thấy Phật hết sức từ bi, chỉ rõ hết tình, nhưng nếu người học trên ngôn ngữ văn tự thì không bao giờ biết tột đến như thế. Đây phải từ tâm chứng nói ra mới nói rõ được như vậy.

Tóm lại, người học cần phải nhận rõ chân và vọng vốn không có hai thể. Ngộ vọng tức là chân, mê chân tức là vọng, không phải bỏ đây tìm kia. Cũng như đừng nghe nói “rời tiền trần riêng có toàn tánh” tức là rời tiền trần riêng có tánh phân biệt mới là tâm ông. Nghe nói như vậy liền bỏ cái đang hiện tiền ở đây, lo tưởng về một cái nào đó thì cũng lầm!

Ngoài cái tánh phân biệt này mà riêng có cái toàn tánh nào nữa thì cái đó là của ai chứ không phải của ông. Gọi là lầm theo ngôn ngữ. Nói theo nhà thiền là theo lời mà sanh hiểu.

Một hôm, Thiền sư Trúc Am Thủy Khê cùng với cư sĩ Trì Nhất luận về đoạn này “rời tiền trần mà riêng có toàn tánh”. Thiền sư Trúc Am nói: “Nếu rời tiền trần mà có tánh phân biệt thì đó là căn bản sanh tử”. Cư sĩ Trì Nhất nghe vậy hoảng hốt, nói: “Nếu vậy Phật nói lầm hay sao?!”.

Trong này, Phật nói rõ rời tiền trần có tánh phân biệt mới thật là tâm ông. Thiền sư Trúc Am nói rời tiền trần mà có tánh phân biệt đó là căn bản sanh tử. Ông hoảng hốt hỏi lại, nếu vậy thành ra Phật nói lầm sao?

Thiền sư Trúc Am bảo: “Phật thì không lầm rồi. Hiện giờ cái tâm đối diện hỏi han của cư sĩ ở đâu?”

 Ngay đó ông liền sáng ra.

Tức cốt yếu Ngài nói với ông đây chứ không phải nói với Phật hồi xưa. Phật thì không có lầm, chỉ ông lầm thôi. Bây giờ hiện tại ở đây - cái tâm ông đang đối diện, hỏi han đây nó đang ở đâu? Cái tâm ông đang đối diện hỏi han ở đây có thật ở ngoài tiền trần mà có hay không? Nếu thật ông đang ở đây rồi thì sao ông lại hoảng hốt? Nếu ông không có ở đây tức rời tiền trần, đây là đi vào sanh tử rồi.

Đây là chỗ người học phải thật thấy, thật ngộ ngay chỗ này. Không phải nghe nói vậy, rồi bỏ cái tâm này đi tìm cái tâm ở ngoài tiền trần. Bỏ cái tâm này để đi tìm cái tâm ở đâu đâu, không khéo lầm thêm một lớp nữa. Bỏ lớp lầm này, qua lớp lầm kia. Khéo thì ngay nơi tâm phân biệt trần đây, lìa trần thì ngộ liền, không phải tìm cái tâm nào khác nữa. Chỗ đó phải hết sức chín chắn.

Hay như Ngài A-nan thưa: “Cúi mong Đức Đại Bi mở lòng chỉ dạy cho kẻ chưa ngộ này”. Ngay cái tâm chưa ngộ đó, ngộ trở lại nó là xong thôi, đừng tìm tâm nào khác nữa.

Chỗ này mới thấy Phật hết sức từ bi chỉ kỹ càng cho mình nhận rõ tâm này, thể nhập trong đó, thì vào Vô sanh pháp nhẫn không khó. Tức là ngay trần mà lìa trần thì đâu có sanh. Đó là con đường vào Vô sanh pháp nhẫn.

-----o0o-----

Trích” Kinh Thủ Lăng Nghiêm Giảng Ký”

Dịch bản Kinh: H.T Thích Phước Hảo

Giảng: H.T Thích Thông Phương

Nhà Xuất Bản Hồng Đức

Bài viết liên quan