TỊNH ĐỘ ĐÔNG PHƯƠNG VÀ TƯ TƯỞNG NGƯỜI DÂN ĐÔNG Á - KINH DƯỢC SƯ VÀ GIẢNG GIẢI KINH DƯỢC SƯ - ĐẠI SƯ ẤN THUẬN

TỊNH ĐỘ ĐÔNG PHƯƠNG VÀ TƯ TƯỞNG NGƯỜI DÂN ĐÔNG Á

KINH DƯỢC SƯ VÀ GIẢNG GIẢI KINH DƯỢC SƯ - ĐẠI SƯ ẤN THUẬN

Việt dịch: Thích Quảng Lâm

--------o0o-------

chúng ta vừa nguyện cầu ân đức Phật Dược Sư gia hộ, đồng thời cũng nương theo hạnh nguyện từ bi mà Ngài đã phát nguyện, đã thực hiện, rồi theo đó áp dụng triệt để vào thực tiễn nhằm giúp cho mình và người được tịnh hóa, hoàn thành cõi Tịnh độ tại nhân gian.
TỊNH ĐỘ ĐÔNG PHƯƠNG VÀ TƯ TƯỞNG NGƯỜI DÂN ĐÔNG Á - KINH DƯỢC SƯ VÀ GIẢNG GIẢI KINH DƯỢC SƯ - ĐẠI SƯ ẤN THUẬN

I. TRÌNH BÀY DUYÊN KHỞI

Vào năm 1934, Đại sư Thái Hư giảng giải Kinh Dược Sư tại chùa A Dục Vương, thành phố Ninh Ba, tỉnh Chiết Giang, Trung Hoa. Khi đó, bởi pháp duyên thù thắng nên người đến dự nghe pháp rất đông, chúng đệ tử nhân đó đã ghi chép lại thành một bộ giảng ký vô cùng sâu sắc nhằm lưu lại cho hậu thế.

Riêng trong năm nay, thế giới phải gánh chịu nhiều tai ương, hoạn nạn với những trận lũ lụt, thiên tai lớn xưa nay chưa từng có trong lịch sử. Điều này càng thôi thúc chúng ta nên xiển dương pháp môn Dược Sư, chính là muốn đưa ra một phương pháp vô cùng hữu ích và ý nghĩa cho mọi người cùng thực hành. Bởi lẽ, các tai ương đó đều là do nghiệp lực của chúng sinh chiêu cảm, còn Phật giáo xuất phát từ lập trường từ bi, giải trừ khổ nạn cho nhân dân mà lập ra pháp môn tiêu trừ tai ách, giúp cho chúng sinh giải trừ nghiệp chướng thoát khỏi các tại ương. Do vậy, bản tự tổ chức “Pháp hội Dược Sư” để cầu nguyện cho đất nước và toàn cầu. Trên từ nguyên thủ quốc gia, dưới đến quân nhân, quần chúng đều được tiêu tai, tăng tuổi thọ, trừ nạn tích phúc. Cho nên, trước lúc pháp hội bắt đầu diễn ra, Đại sư đã giảng giải về kinh này với mong muốn giúp mọi người hiểu rõ nội dung, ý nghĩa trong kinh, và cũng để cho những người tham dự pháp hội không chỉ nương vào phương diện uy lực hộ trì của Tam bảo, mà tự thân phải biết nương vào giáo pháp, tinh tiến tu trì mới có thể thực sự đạt được mục đích tiêu trừ tai ách như tâm nguyện. Đây là nhân duyên gần nhất để ngài giảng giải Kinh Dược Sư này.

Khi Đại sư Thái Hư giảng về kinh này, ngài nói có ba nhân duyên lớn:

1. Con Người Trong Thời Cận Đại Chú Trọng Đến Đời Sống An Lạc Ở Hiện Tại

Con người thời nay chú trọng vào hiện thực, mong cầu một đời sống thực tế lý tưởng và an lạc. An lạc mà Phật pháp bàn đến có ba loại: Một là an lạc ở đời này, hai là an lạc đời sau, ba là an lạc đưa đến thành tựu giải thoát.

Trên thế gian, con người thường gặp muôn vàn thông khổ bức bách, nên ai ai cũng mong cầu thoát khổ, hướng đến an vui. Thông thường, những mong cầu ấy chung quy đều không ngoài việc tìm cầu đời sống an lạc ở hiện tại, an lạc trong đời sau và an lạc đưa đến thành tựu giải thoát. Bởi vì, căn tính của mỗi người vốn dĩ khác biệt, sống trong hoàn cảnh, môi trường không giống nhau, nên cảnh giới an lạc mà họ mong cầu cũng có điểm sai khác. Do đó, có người thì mong cầu an lạc cho đời sau, có người lại tìm cầu an lạc nơi cứu cánh giải thoát. Trong thời đại ngày nay, đa số mọi người thường rất coi trọng đời sống an lạc trong hiện tại.

Đức Thế Tôn khai sáng đạo Phật trên tinh thần căn bản là dẫn dắt chúng sinh đạt được thành tựu, đời sống trở nên an lạc và giải thoát, nên Phật pháp còn được gọi là “Pháp xuất thế”. Tuy nhiên, lòng mong cầu của mọi người đều không giống nhau, nếu chỉ nói an lạc, cứu cánh giải thoát thôi thì e rằng không thể đáp ứng hết được ước nguyện của tất cả mọi người. Do vậy, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã dùng phương tiện vừa chỉ bày pháp môn Dược Sư ở Tịnh độ Đông phương, vừa giảng giải pháp môn Di Đà ở Tịnh độ Tây phương. Từng có nhận định rằng, Đức Phật Dược Sư độ sinh (gia hộ cho người còn sống được trường thọ), còn Đức Phật Di Đà thì độ tử (độ cho người sắp mạng chung), thật ra đó cũng chỉ là lời nói chung chung mà thôi.

Nói một cách đúng nghĩa, pháp môn Tịnh độ của Đức Phật Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai ở cõi Đông phương phù hợp với những ai tìm cầu sự an vui trong đời sống thực tại. Còn pháp môn Tịnh độ của Đức Phật A Di Đà ở cõi Tây phương thì hợp với những mong cầu an vui ở đời sau. Cả hai đều là phương tiện dẫn dắt chúng sinh bước vào cánh cửa Đại thừa, thành tựu giải thoát tối thượng.

Vốn xưa nay, bất luận là thế giới Tây phương Cực lạc hay thế giới Đông phương Thanh tịnh Lưu ly, thì không ai trong chúng ta có thể biết rõ. Phải đợi đến khi Đức Phật Thích Ca Mâu Ni giới thiệu, chúng ta mới biết có những thế giới như vậy tồn tại. Đây đều là phương tiện thiện xảo, đại từ đại bi cứu độ trần gian của Đức Thế Tôn.

Vì muốn cho nhân loại đều được an vui trong đời sống hiện tại, nên Đức Phật Thích Ca đã chỉ bày pháp môn Tịnh độ của Phật Dược Sư ở cõi Đông phương; vì muốn dìu dắt nhân loại tìm cầu an vui ở đời sau, mà Ngài giảng dạy pháp môn Tịnh độ của Đức Phật A Di Đà. Cả hai pháp môn này đều diệu dụng, được lưu xuất từ pháp môn thành tựu viên mãn rốt ráo giải thoát.

Đại sư Thái Hư đặc biệt xiển dương pháp môn Dược Sư là vì phần nhiều tín đồ Phật giáo thường thiên về pháp môn niệm Phật cầu sinh Tây phương Tịnh độ. Họ quá chú trọng đến thế giới an lạc được sinh về sau khi chết, điều này dễ dẫn đến sự ngộ nhận của các nhân sĩ trí thức trong xã hội đối với Phật pháp. Thật ra, điểm cốt yếu của đạo Phật là an lạc, giải thoát. Đức Thế Tôn nêu ra hai cõi Tịnh độ ở Đông phương và Tây phương là muốn cùng một lúc chỉ bày hai pháp môn đem đến niềm hỷ lạc, an vui cho mọi người, mọi loài ngay trong đời này và cả đời sau. Đại sư chú trọng đến pháp môn mang lại an lành cho con người trong đời sống hiện tại, và để thích ứng với căn tính của mỗi người, mà ngài đặc biệt xiển dương pháp môn Dược Sư nhằm phát huy diệu dụng nhiệm mầu của Phật pháp.

2. Tịnh Độ Đông Phương Và Tư Tưởng Người Dân Đông Á

Đức Phật dạy: “Từ đây đi về Tây phương, trải qua mười vạn ức cõi Phật, có thế giới tên là Cực lạc”. Đồng thời Ngài cũng dạy: “Hướng về Đông phương, cách đây hơn mười hằng hà sa cõi nước Phật, có thế giới tên là Tịnh lưu ly”.

Không phải ngẫu nhiên mà Đức Phật đã khai thị hai pháp môn lớn này. Có thể nói, dù là cõi Tịnh độ Đông phương hay là cõi Tịnh độ Tây phương, nhất định đều mang một ý nghĩa chân thật. Sinh ra trên đất nước Ấn Độ với nền văn hóa hết sức đa dạng, Đức Thế Tôn nhận thấy hai pháp môn này rất phù hợp và có ý nghĩa vô cùng sâu sắc đối với thế giới nhỏ bé của chúng ta. Nếu tư tưởng của người dân ở phía Tây Ấn Độ phần nhiều có khuynh hướng giống với “Tịnh độ Di Đà”, thì đa phần tư tưởng của con người ở phía Đông Ấn Độ lại tương ứng với tinh thần “Tịnh độ Dược Sư”.

Từ lãnh thổ đất nước Ấn Độ hướng về phía Tây, tư tưởng tôn giáo của người dân, dù là Hồi giáo hay Cơ Đốc giáo, đều tôn thờ một vị thần. Họ cầu nguyện sau khi chết sẽ được sinh về cõi trời và đặt nặng về tín ngưỡng cũng như phúc lạc ở đời sau. Vậy nên, Đức Phật mở bày Tịnh độ Tây phương, không những đơn thuần chỉ cho chúng sinh thế giới Cực lạc cách đây hơn mười vạn ức cõi, mà còn đề cập đến các quốc gia ở phía Tây đất nước Ấn Độ, nếu biết chuyển nhơ uế thành thanh tịnh thì cũng chính là đang từng bước xây dựng thế giới Tịnh độ Cực lạc. Tuy nhiên, từ Ấn Độ hướng về phía Đông, chẳng hạn như đối với Trung Hoa thì tư tưởng không phải vậy. Khổng Tử nói: “Sự sống còn chưa biết rõ, làm sao biết được sự chết”. Điều đó cho thấy rằng, tư tưởng văn hóa Đông phương đặc biệt xem trọng phúc lạc hiện đời, điều này rất giống với tư tưởng Tịnh độ của Đức Phật Dược Sư. Cho nên, Kinh Dược Sư rất phù hợp với lối tư duy của người phương Đông chúng ta.

3. Nương Theo Cõi Tịnh Độ Của Phật Dược Sư Để Xây Dựng Tịnh Độ Nhân Gian

Thường thì khi hành trì pháp môn Dược Sư, chúng ta chỉ chú trọng việc cầu nguyện cho tai qua nạn khỏi và khỏe mạnh, trường thọ, chứ không mấy ai quan tâm đến Đức Phật Dược Sư ở các kiếp trong quá khứ đã từng phát tâm Bồ đề, lập thệ nguyện lớn, thực hành hạnh đại bi, rồi sau mới thành tựu quả vị Phật, thành tựu thế giới Lưu ly thanh tịnh quang minh. Vấn đề này trong kinh đã đề cập rất chi tiết, vì thế khi tham gia pháp hội Dược Sư, chúng ta vừa nguyện cầu ân đức Phật Dược Sư gia hộ, đồng thời cũng nương theo hạnh nguyện từ bi mà Ngài đã phát nguyện, đã thực hiện, rồi theo đó áp dụng triệt để vào thực tiễn nhằm giúp cho mình và người được tịnh hóa, hoàn thành cõi Tịnh độ tại nhân gian.

Năm 1933, Viện trưởng Viện Hành chính Trung Hoa - Đới Quý Đào đã tổ chức pháp hội Dược Sư ở núi Bảo Hoa, và khuyến khích mọi người phát mười hai đại nguyện như Phật Dược Sư. Nếu chúng ta thực hành theo đại nguyện ấy, thì không chỉ những tai ương nhỏ bé của bản thân được tiêu trừ, mà ngay đến quốc gia, xã hội, thậm chí cả thế giới, cũng đủ khả năng chuyển hóa thành cõi Tịnh độ trang nghiêm. Cõi Đông phương Tịnh độ của Đức Phật Dược Sư được thành tựu là do y nơi bản nguyện công đức của Ngài. Nếu thực hành pháp môn này thì chúng ta có thể chuyển hóa từ thế giới ô trược tràn ngập muôn nghìn thống khổ thành thế giới Tịnh lưu ly, không còn thiên tai, dịch bệnh. Vì thế, chúng ta nghe giảng kinh này rồi thì nên theo sự hiểu biết và thực hành đó mà phát nguyện xây dựng Tịnh độ ở nhân gian.

II. GIẢI THÍCH TỰA ĐỀ KINH

Tựa đề của bản kinh này căn cứ vào lời dạy của Đức Phật thì có ba cách gọi:

1. Bản nguyện công đức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai.

2. Thập nhị Thần tướng nhiêu ích hữu tình kết nguyện thần chú.

3. Bạt trừ nhất thiết nghiệp chướng.

Bản kinh lưu hành hiện nay lấy tựa đề theo cách gọi thứ nhất là Bản nguyện công đức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai. Bởi vì, Bạt trừ nhất thiết nghiệp chướng (tiêu trừ tất cả các nghiệp chướng) chính là năng lực công đức bản nguyện của Đức Phật Dược Sư; còn Thập nhị Thần tướng nhiêu ích hữu tình kết nguyện thần chú, cũng là pháp môn hộ trì công đức của Phật Dược Sư, giúp cho chúng sinh có được lợi lạc từ pháp môn công đức này. Vì vậy, lấy tên Kinh Bản nguyện công đức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai là đã bao hàm cả nội dung ý nghĩa, hạnh nguyện và công đức của Phật Dược Sư.

Về ý nghĩa "Dược Sư”: Thời nay, nói đến tên "Dược Sư”, người ta sẽ nghĩ ngay đó là người điều chế ra các loại thuốc chữa bệnh (dược sĩ bào chế thuốc). Còn thời xưa thì ý nghĩa của hai chữ “Dược Sư” lại hàm nghĩa vị lương y (bác sĩ chân chính). Trong đạo Phật, chúng ta thường xưng tán Đức Phật là “Vô Thượng Y Vương” hoặc là “Đại Dược Sư”, vì Đức Phật có năng lực chữa lành mọi thứ bệnh khổ cho tất cả chúng sinh.

Kinh điển có chép: Trong các hoạt động của sinh học và các chức năng của cơ quan trong cơ thể con người (sinh lý), có ba thứ bệnh khổ là già, bệnh, chết. Tâm lý cũng có ba thứ bệnh là tham lam, sân hận, si mê. Đức Phật ra đời cứu độ chúng sinh tức là chữa lành, làm tiêu trừ mọi thứ bệnh tật cả về thân lẫn về tâm của chúng sinh, thế nên mọi người mới xưng tán Đức Phật là Đại Y Vương, Đại Dược Sư. Chúng ta không thể đem danh hiệu Dược Sư, với một nghĩa cao quý, đặt ngang bằng với tên gọi của người pha chế thuốc bình thường được.

Thế nào là bệnh? Thế nào là thuốc? Bệnh là hiện tượng phát sinh do sự phá vỡ cân bằng và hòa hợp của cơ thể mà tạo thành, như trong kinh chép: “Một đại mà không hòa hợp thì trăm thứ bệnh phát sinh”. Trong cơ thể con người, nếu có một bộ phận nào đó không điều hòa thì sẽ sinh bệnh, và gây ảnh hưởng dẫn đến việc các đại (đất, nước, gió, lửa) xảy ra xung đột, chống trái lẫn nhau. Tâm lý con người cũng có những xung đột bất ổn, không hòa hợp giống như vậy. Nếu trong tâm chúng ta còn tồn đọng một vài vướng mắc thông qua những biểu hiện bất thường, hoặc giả như có nỗi phiền muộn nào đó thì sẽ rất dễ dẫn đến sự bất an cho cả tinh thần lẫn thể xác. Nếu nói như thế thì bệnh tật của thế gian này nhiều vô kể. Từ thân tâm của mỗi cá nhân, rộng hơn nữa là gia đình, quốc gia, xã hội cho đến toàn thế giới, ai mà không có đầy rẫy những bệnh tật. Ví dụ: Trong một gia đình, nếu cha - con, vợ - chồng, anh - em, chị - em không hòa thuận nhau, thì tất nhiên gia đình đó có “bệnh”. Mỗi một thành viên trong một tổ chức đoàn thể mà không đoàn kết hòa hợp thì đoàn thể đó đã có “bệnh”.

Nói rộng hơn, trong một đất nước mà hệ thống chính trị không đi đúng quỹ đạo thì đất nước đó sẽ đổ “bệnh”. Con người nếu không chịu hòa giải, thương thảo, không giúp đỡ lẫn nhau, không chung sức đồng lòng thì thế giới ấy ắt sẽ bị “bệnh”.

Và một điều tất yếu rằng, có bệnh là có khổ, cho nên, có bao nhiêu tại ương, hoạn nạn thì có bấy nhiêu đau đớn, khổ sở. Tất cả đều là mầm bệnh và những mầm bệnh ấy được sinh ra từ chính những mâu thuẫn, xung đột trong đời sống thường nhật của mỗi chúng ta. Ở phương diện cá nhân, thông thường, ai ai cũng đinh ninh là mình không có “bệnh”, nhưng theo quan điểm Phật giáo thì: “Con người không lúc nào là không có bệnh”, chẳng qua chỉ vì nó còn tiềm ẩn trong cơ thể nên tạm thời chúng ta chưa nhận ra mà thôi. Con người xưa nay luôn gắn liền với bệnh tật, bởi lẽ, đã sinh ra làm người thì hiển nhiên chúng ta phải có thân, có tâm, có lục phủ, ngũ tạng, v.v. và các chức năng sinh lý. Các nhân tố cấu thành nên thân thể này vận động không ngừng, phát sinh mâu thuẫn rồi sinh bệnh. Chỉ khi chúng ta khiến cho các nhân tố ấy nghiêng về một mức độ điều hòa ổn định nhất, thì thân thể lúc này mới tạm xem là khỏe mạnh. Từ ý nghĩa trên mà xét, thì tất cả thế gian đều có thống khổ, có tai ương hoạn nạn, tức là không ai mà không có bệnh tật.

Chúng sinh có bệnh nên cần thuốc để chữa trị, từ y dược đến pháp luật chính trị của thế gian, vv. đều có thể được xem là “thuốc hay trị bệnh”. Nhưng ở trong Phật pháp, “thuốc hay” đó chính là lời dạy cao quý của Đức Phật (pháp Phật), cũng được gọi là “Pháp dược”, và duy chỉ có pháp Phật mới có thể chữa lành được tất cả các bệnh tật.

Như vừa mới nói, bệnh thì có đủ các chứng bệnh khác nhau. “Bệnh” luôn tồn tại và hiện hữu trong thân, trong tâm, gia đình, đoàn thể, quốc gia và trên cả thế giới, v.v. Hễ những gì có thể làm xoa dịu và dứt trừ bệnh khổ, khiến mọi nỗi khổ niềm đau biến thành an lạc thì đó đều gọi là “thuốc” cả. Do vậy, có thể thấy rằng, tất cả mọi thứ trên thế gian này đều được xem là “thuốc”, đâu đâu cũng có “thuốc”. Chẳng qua chúng ta không nhận thức được điều đó mà thôi. Nếu hiểu được rồi thì cái gì cũng có thể trị bệnh. Trước đây, có một người học nghề thuốc, lúc sắp tốt nghiệp, người thầy muốn kiểm tra trình độ học lực của học trò mình như thể nào, bèn bảo anh ta lên núi hái thuốc, và căn dặn: Hễ nhìn thấy bất kỳ cây thuốc nào thì cứ hái hết mang về. Kết quả là, người ấy đi hết một ngày nhưng lại trở về tay không. Người thầy hỏi: “Tại sao con lại về tay không vậy?” Anh ta điềm nhiên đáp: “Thưa thầy! Từ cỏ cây, hoa lá cho đến đất đá, cát sạn ở trên núi, có thứ nào mà không phải là thuốc. Thuốc nhiều vô kể như vậy, thử hỏi con làm sao lấy hết được!”

Nói như vậy để thấy, mọi thứ trên thế gian đều có thể là thuốc và đều có khả năng chữa bệnh, vấn đề là do người sử dụng thuốc không hiểu rõ dược tính của nó nên mới không biết cách tùy theo bệnh để phối thuốc mà thôi. Phật pháp là pháp uyển chuyển, chúng sinh có muôn vàn thứ bệnh thì Phật pháp dùng vô số pháp dược để đối trị. Bởi, pháp của Phật tùy theo căn bệnh của chúng sinh mà kê đơn, cho nên nói, nhân sinh có tám vạn bốn nghìn phiền não thì Đức Phật đưa ra tám bốn nghìn pháp môn tương ứng để đối trị. Nếu có bệnh gì thì cứ lấy loại thuốc tương ứng để chữa trị, còn giả như cứ khư khư rằng, đây mới đúng là thuốc và kia thì không phải, tức là còn cách Phật pháp rất xa.

Liên quan đến vấn đề thuốc và bệnh như trước đã nói, ở đây bàn tiếp về người thầy thuốc có thể biết rõ nguồn gốc của bệnh và có thể dùng đúng thuốc. Phật pháp nói, có hai hạng thầy thuốc, đó là:

1. Tiểu Dược Sư: Y thuật không quá giỏi, trong tủ thuốc của vị ấy cũng chỉ có đôi ba loại thuốc và chỉ có thể chữa một vài chứng bệnh.

2. Đại Dược Sư: Trong tủ thuốc của vị ấy luôn đầy đủ tất cả các loại thuốc, cần loại nào có loại đấy. Hơn nữa, y thuật lại rất giỏi, có thể xem bệnh tận tình, kỹ lưỡng và khéo dùng thuốc hay, phù hợp với từng căn bệnh.

Đại Dược Sư dụ cho trí tuệ thâm sâu viên mãn, nguyện lực vĩ đại cũng như lòng từ bi rộng lớn của chư Phật, chư Bồ tát. Với vô số pháp môn, vô số diệu dược, các Ngài có thể chế ra và sử dụng trăm nghìn phương thuốc khác nhau một cách thuần thục, không bao giờ nhầm lẫn. Tùy theo muốn hình vạn trạng chúng sinh, hễ ai mắc chứng bệnh gì thì các Ngài liền chữa trị bằng thứ thuốc ấy. Còn vị Tiểu Dược Sư cố chấp vào một phương thuốc, một cách trị thì không bao giờ có thể sánh kịp.

Thầy thuốc trị bệnh, cách chữa trị phần ngọn và chữa trị tận gốc không giống nhau. Ví như đau đầu thì trị đau đầu, đau chân thì chữa đau chân, đó là chỉ trị ở phần ngọn; còn nghiên cứu, tìm hiểu căn nguyên của chứng bệnh rồi tìm ra phương cách loại trừ sạch nguồn gốc của bệnh, ấy mới là cách trị bệnh tận gốc. Tuy nhiên, cách chữa trị tốt nhất là vừa lo bồi dưỡng nguyên khí, vừa lo chuẩn bị đầy đủ các nhân tố để có thể ứng phó với căn bệnh, điều này cũng đồng nghĩa với việc đề phòng và ngăn ngừa từ khi chưa phát bệnh, đó mới là phương pháp trị bệnh tốt nhất.

Về phương diện tâm lý, như lời dạy (của chư vị tiền bối) là dùng cái thấy biết chân chính (chính tri kiến), tin sâu nhân quả và phải có niềm tin tuyệt đối vào ngôi Tam bảo. Về phương diện sức khỏe thì nhắc nhở chúng ta phải cẩn thận giữ gìn vệ sinh, siêng năng vận động, khéo quân bình lối sống của bản thân. Nếu biết trước, tự mình cần bằng trạng thái thân - tâm điều hòa thật tốt, thì cơ bản sẽ không phát sinh bệnh tật. Nếu không biết phòng ngừa bệnh trước, đợi sau khi có bệnh mới dùng thuốc trị thì đó chỉ là “hạ sách” mà thôi. Đây tuy là cách chữa trị cần thiết, nhưng xét cho cùng thì dĩ nhiên không bằng cách trước. Tục ngữ có dạy: “Bị đau bệnh tuy có thuốc chữa trị là tốt, nhưng đừng để đổ bệnh thì càng quý hơn”.

Phương pháp trị bệnh chú trọng việc chăm sóc, bồi dưỡng, giữ gìn cho thân tâm được khỏe mạnh, cân bằng sự phát triển các bộ phận trong cơ thể và loại bỏ các nhân tố gây bệnh. Bệnh trong mỗi gia đình, mỗi đất nước cũng áp dụng cách chữa trị giống như vậy. Nếu để sau khi có bệnh mới đưa đến bệnh viện chữa trị thì đã muộn rồi.

Người thầy thuốc giỏi là người điều trị được cả bệnh nền lẫn bệnh mới phát sinh, vấn đề còn lại là tùy vào bản thân người bệnh. Nếu thầy thuốc dặn người bệnh hãy chú ý giữ gìn vệ sinh để phòng ngừa các vi khuẩn gây bệnh, mà anh ta không nghe thì đương nhiên khó thể lành bệnh.

Đức Phật trị bệnh cho chúng sinh cũng có hai cách là trị bệnh trên ngọn và trị bệnh tận gốc. Sau khi được quy y Tam bảo, người Phật tử có thể nương theo giáo pháp mà tinh tiến tu tập, từ trong hạnh nguyện mà dần dần được thể nghiệm. Các loại phiền não cùng với vô số khổ đau tự nhiên cũng dần dần được xoa dịu, cuối cùng là hoàn toàn biến mất, từ đó giúp người tu tập thành tựu được lý tưởng cao thượng. Thế nhưng, người bình thường khó lòng làm được như vậy, cũng bởi hằng ngày không chịu cố gắng tu tập; không giữ gìn, phát triển điều thiện lành; biếng nhác tìm hiểu, học hỏi; điều xấu thì không chịu bỏ, mà ngược lại, ngày càng sai phạm nhiều thêm; không biết điều phục thân tâm, không khéo sắp xếp việc nhà, lại chẳng giỏi điều hành đất nước bệnh tuy nhẹ mà cứ để tràn lan, phát tán thì đau khổ biết bao!

Phật pháp vì muốn chữa trị các loại bệnh khổ nơi thân và tâm của chúng sinh, nên có pháp môn dứt trừ tai ương, khổ nạn. Đối với người bệnh, mặc dù không tránh khỏi bị chê trách rằng:

Bình thường chẳng biết thắp hương,

Đến khi gặp chuyện, tựa nương chân Ngài.

Song, nếu có thể mạnh mẽ, quyết tâm quay đầu, khẩn thiết sám hối tội lỗi, cầu nguyện Tam bảo gia hộ thì vẫn còn cơ hội dứt trừ tai ương, cuộc sống nhờ đó mới được an nhiên, hạnh phúc. Chỉ sợ là không biết bệnh, không chịu tìm thầy hay, thuốc tốt nên mới đành chịu chết một cách oan uổng mà thôi. Cho nên, nếu tha thiết, chí thành nương vào giáo pháp mà hành trì, thì khổ nạn chưa tiêu rồi cũng sẽ tự tiêu, phúc tuệ chưa tăng trưởng chắc chắn cũng sẽ tự lớn mạnh. Muốn cầu cho qua khỏi ách nạn, tiêu trừ tai chướng, tuổi thọ tăng trưởng thì mọi người phải nên thực hành phương pháp trị bệnh cả gốc lẫn ngọn.

Theo pháp môn phương tiện của Đức Phật, trị bệnh còn có thể chia làm hai loại: một là chính trị, hai là kỳ trị. “Chính trị” là phương pháp trị liệu những bệnh thường gặp, “kỳ trị” là phương pháp trị liệu các bệnh đặc biệt. Lẽ dĩ nhiên, thuốc độc thì hại người, nhưng vào tay vị bác sĩ giỏi thì thạch tín cũng có thể bào chế thành thuốc hay. Đây cũng chính là phương pháp điều trị đặc biệt để chữa trị các căn bệnh hiếm, lạ. Tuy vậy, phương pháp điều trị theo cách “kỳ trị” này không phải dễ vì thường nảy sinh nhiều nguy hiểm. Các phương pháp chữa trị thông thường xem ra vẫn ổn định và an toàn hơn, không dẫn đến biến cố ngoài ý muốn.

Phương pháp trị bệnh cho chúng sinh của Đức Phật cũng có hai cách: phương pháp điều trị thông thường và phương pháp điều trị đặc biệt. Ví dụ như, Đức Phật nói về vô ngã. Đó là cách điều trị căn bản, thông thường, nhưng có một số người lại không thể hiểu rõ, lòng sinh hoang mang hoặc giải thích sai lạc ý chỉ của Phật, từ đó mạt sát nhân quả, từ bỏ điều lành, chạy theo điều ác. Đức Phật đối trị hạng người này không thể không nói đến hữu ngã, để có thể sửa đổi những thiên kiến sai trái của họ. Sự ứng dụng linh hoạt bằng vô số phương tiện để cứu độ chúng sinh như thế của Đức Phật không thể nêu ra hết được. Nói tóm lại, hễ gặp chúng sinh mắc bệnh nào thì Ngài dùng loại thuốc đó để chữa trị. Con đường đẹp tuy xa nhưng bằng phẳng và dễ đi; con đường quanh co, khúc khuỷu tuy gần nhưng gập ghềnh, nguy hiểm. Về điểm này, người tu học Phật pháp trước hết cần phải hiểu rõ.

“Dược Sư”, vốn có thể được xem như danh hiệu chung của tất cả chư Phật, bởi lẽ, Đức Phật nào cũng có thể chữa trị “bệnh” cho chúng sinh. Đức Phật xem xét các loại bệnh trạng của chúng sinh rồi kê toa, đưa ra các đơn thuốc để sử dụng sao cho phù hợp; tám vạn bốn nghìn pháp môn, chính là tám vạn bốn nghìn phương thuốc hay để chữa lành các căn bệnh phiền não, đau khổ. Đại khái mà phân ra thì có: pháp dược của trời người, pháp dược của Thanh văn, pháp dược của Bồ tát tự lợi, lợi tha, v.v. Căn cứ theo ý này thì tất cả chư Phật đều là Vô Thượng Y Vương, đều là Đại Dược Sư.

Nhưng Đức Phật ở cõi Đông phương lại đặc biệt chú trọng đến việc tiêu tai, giải nạn, chú trọng việc điều trị bệnh cho mọi người, mọi loài, nên lấy tên “Dược Sư”. Dược Sư Vô Thượng cứu cánh tuy là danh hiệu Đức Phật, song nếu đệ tử Phật tu học theo giáo pháp của Đức Phật, hoặc tự học, hoặc giảng thuyết, làm lợi ích hóa độ cho mọi người, mọi loài, học tập pháp dược của Đức Phật, cứu chữa vô vàn bệnh khổ cho chúng sinh thì cũng có thể được gọi là Dược Sư.

“Lưu Ly Quang” cũng là danh hiệu của Đức Phật cõi nước Đông phương. Danh xưng Lưu Ly được đề cập ở đây không phải là đèn lưu ly, ngói lưu ly hay những vật dụng bằng ngọc lưu ly nào khác, mà là danh từ được lược dịch từ chữ “Bích lưu ly” của Phạn ngữ, dùng để chỉ cho một loại báu vật. Màu sắc của nó như bầu trời xanh vạn dặm không một gợn mây, lại như nước biển trong suốt thấu đến tận đáy, thể chất kiên cố như đá kim cương, là một loại trận bảo rất quý hiếm. Ở đây, chúng ta dùng ánh sáng rạng ngời, chói lọi và sáng đẹp, trong suốt của bảo lưu ly để ví với đức hạnh thanh khiết, cao vời của Đức Phật. Cũng chính vì thế, Đức Phật Dược Sư ở Đông phương mới lấy danh hiệu là “Lưu Ly Quang”.

Bảo lưu ly còn được dịch là “Bảo viễn sơn”. Y cứ vào lời dạy của Đức Phật, thì thế giới này của chúng ta, chính giữa là núi Tu Di, bao quanh ngọn núi này có bốn châu lớn. Bốn đỉnh của núi Tu Di đều được tạo thành từ các loại châu báu. Hướng đỉnh núi quay về Nam Thiệm Bộ Châu được tạo thành từ bảo lưu ly. Ánh sáng rực rỡ của đỉnh núi báu này phản chiếu trong không gian và hiện dần ra trên nền trời màu xanh tuyệt đẹp, thế nên lưu ly còn được dịch là “Bảo viễn sơn”. Đối với các nhà khoa học thời hiện đại thì việc trên bầu trời tại sao lại xuất hiện màu xanh, đương nhiên là có cách giải thích của riêng họ. Đức Phật sinh ra ở Ấn Độ, nên dùng kiến giải đương thời của các nhà khoa học Ấn Độ để lý giải rằng, đó là do sự phản chiếu ánh sáng của ngọc lưu ly.

Danh hiệu của chư Phật và Bồ tát được thành lập căn cứ vào uy đức và hạnh nguyện của quý Ngài. Uy đức của Đức Phật vốn cao tột, không có sự hoàn mỹ nào có thể sánh được, vậy nên chúng ta chỉ có thể dựa trên một đặc tính nào đó của Đức Phật (như tự lợi hoặc lợi tha), hay dùng hình ảnh thí dụ để miễn cưỡng giải rõ nghĩa lý. Ví như Tu Di Sơn Vương Phật, là dùng sự nguy nga, cao lớn của ngọn núi Tu Di để sánh với uy đức vĩ đại, cao quý của Đức Phật. Cũng như Chiên Đàn Hương Phật, bởi hương thơm từ uy đức của Phật bay xa, không giới hạn vùng trời, quốc độ nên lấy Chiên đàn hương mà lập danh hiệu. Lại như Lôi Âm Vương Phật, được hình dung là pháp âm của Đức Phật vang động khắp nơi, như tiếng sấm trong hư không làm rung chuyển cả thế giới. Danh hiệu của chư Phật nương theo uy đức hoặc lấy từ thí dụ mà lập; danh hiệu Lưu Ly Quang đây cũng từ hình thức so sánh ẩn dụ nhằm ca ngợi tính đức của Phật mà thành.

Hàm nghĩa thâm sâu trong danh hiệu Lưu Ly Quang, sau đây sẽ được khái lược trong hai ý:

1. Căn cứ vào tâm tính của chúng sinh: Bản kinh này cho rằng: Cõi Phật ở Đông phương là thế giới Tịnh lưu ly, danh hiệu của Phật là Lưu Ly Quang Như Lai. Có hai vị Bồ tát là Nhật Quang Biến Chiếu và Nguyệt Quang Biến Chiếu cùng Đức Phật tuyên dương chính pháp. Như trước đã nói, bảo lưu ly chính là Bảo viễn sơn, ánh sáng lưu ly là màu sắc do Bảo viễn sơn phản chiếu vào hư không. Nhưng ở đây, hai vị Bồ tát này lại lấy danh hiệu để hiển bày công đức, như mặt trời, mặt trăng chuyển động trong không trung, tỏa ánh sáng soi chiếu khắp mọi nơi. Tất cả mọi người, mọi loài, trong quá trình sinh tử luân hồi đều có xu hướng và mong cầu hướng đến những điều tốt đẹp và hoàn mỹ. Đức Phật dựa theo tâm tính của chúng sinh nên đã lấy sự trong xanh, sáng đẹp của bầu trời và hình ảnh mặt trời, mặt trăng để biểu trưng cho đức tính của Như Lai.

Hướng đến điều tốt đẹp, hoàn mỹ là sự khao khát, mong cầu chung của cả nhân loại, đó cũng là yêu cầu tối thiểu của bất kỳ một tôn giáo nào. Phật giáo vốn chú trọng về chân lý và trí tuệ; đa thần giáo thì sùng bái mặt trời, mặt trăng; Cơ Đốc giáo thờ Thiên Chúa, tuy nói là không hình không tướng nhưng có thể thấy Thượng đế cũng là ánh sáng chói rạng; hay như Ấn Độ giáo sùng bái đấng Phạm Thiên, ý nghĩa của chữ Thiên (tiếng Phạn là Đề bà) cũng có nghĩa là ánh sáng.

Sở dĩ, nhân loại dành sự kính ngưỡng đối với ánh sáng của mặt trời, mặt trăng hay khát khao một bầu trời trong xanh, thoáng đãng, v.v. tất cả cũng chỉ là biểu hiện của lòng khát vọng, mong cầu những gì tốt đẹp và tươi sáng. Nhu cầu tự nhiên của nhân loại là hướng đến điều tươi đẹp, nhưng do nền tảng hiểu biết còn ấu trĩ nên mới mù quáng đặt niềm tin vào thần thánh (thần mặt trời, thần mặt trăng), ma quỷ, mà không thể tự mình hiểu được nghĩa chân thực của việc ngưỡng mộ ánh sáng trí tuệ, quy hướng Đức Phật ấy cốt là để phát khởi nguồn sáng chân thật của Chân tâm Phật tính.

Do vậy, pháp môn Dược Sư lấy sự cao rộng, khoáng đạt của bầu trời xanh và ánh sáng trong suốt của mặt trăng, mặt trời để biểu thị công đức của chư Phật và chư Bồ tát, hiển bày cảnh giới siêu việt cùng lý tưởng cao thượng cho nhân loại. Ánh sáng của thế gian không gì sánh bằng ánh sáng rực rỡ của mặt trời và ánh sáng dịu dàng của mặt trăng. Hai loại ánh sáng này đều là ánh sáng của sự thanh tịnh, tượng trưng cho hy vọng và hạnh phúc. Tuy nhiên, dù ít hay nhiều thì chúng vẫn có các đặc tính khác nhau.

Ở đây, ánh sáng của mặt trời luôn ấm áp bởi nguồn nhiệt lượng vô cùng phong phú, nên dưới sự soi sáng của mặt trời thì tất cả vạn vật đều hiển bày một cách rõ ràng. Điều này dụ cho ánh sáng của trí tuệ có thể mang hơi ấm đến khắp nơi, soi thấu tất cả sự mông muội, thấu triệt chân lý của các pháp thế gian lẫn xuất thế gian.

Còn mặt trăng với ánh sáng mát dịu, bình yên, u nhã và tĩnh mịch. Trong đêm tối, ánh trăng chiếu sáng thanh khiết, trong suốt, dẫn lối cho người đi đường tránh được các hiểm nguy, hàm chứa trọn vẹn ý nghĩa từ bi cứu độ cao cả. Trong khi ánh sáng của mặt trời mang đến cho con người sự ấm áp, nguồn sáng, hạnh phúc và hy vọng, thì ánh sáng của mặt trăng lại đem đến cho con người cảnh giới của sự thanh lương, mát mẻ, an ổn, u nhã và tĩnh mịch. Ánh sáng cùng với hơi ấm ấy có thể thúc đẩy chúng ta thêm phấn khởi, hướng thượng. Song song với nguồn ánh sáng ấm áp ấy là sự nhẹ nhàng và an tịnh, đủ sức luyện tâm tính, giúp chúng ta trở nên tự tại và an định, đây là mục tiêu mà tất cả con người cần đạt đến.

Trong thế giới hiện thực này, ai ai cũng đều có khuynh hướng mong cầu những gì tươi sáng, tốt đẹp hơn. Con người cần sự tươi mới của con người, xã hội cũng cần có những bước “lột xác” của xã hội. Trung Hoa thời xưa có bốn chữ “Quang thiên hóa nhật”, dùng để diễn tả một xã hội xán lạn, rực rỡ. Hiện nay, đất nước Trung Hoa sử dụng lá cờ nền đỏ làm quốc kỳ, biểu trưng cho mong muốn toàn thể nhân dân Trung Hoa từ nay trở về sau sẽ có được cuộc sống tự do, bình đẳng, luôn tươi mới và hạnh phúc.

Hoàng đế Võ Tắc Thiên đời nhà Đường luôn ôm ấp hoài bão có thể đưa tư tưởng Phật giáo vào chính trị. Bởi vì bà mong muốn thể chế đất nước vận hành theo con đường đúng đắn nhất, và đương nhiên, khi đó toàn dân đều sẽ được sống trong hạnh phúc, an vui. Vì vậy, bà đã chủ ý đặt ra chữ “Chiếu” để làm tên cho mình; đọc là chiếu, nghĩa là mặt trời, mặt trăng gần kề với không gian. Do đó, có thể thấy rằng, Võ Tắc Thiên luôn mong mỏi một viễn cảnh hạnh phúc, tươi sáng như thế hơn bao giờ hết.

Tuy nhiên, những gì đề cập trên đây chỉ là khuynh hướng mong cầu một cuộc sống tươi sáng hơn mức bình thường của hầu hết nhân loại. Điều thực sự có thể đưa chúng ta đạt đến mục tiêu cuối cùng, khiến con người đạt đến cảnh giới chân lý rốt ráo duy chỉ có Phật pháp. Do đó, chỉ có những ai đang đi trên lộ trình học Phật, hành pháp mới có thể thành tựu viên mãn, rốt ráo đời sống tu tập, mới có khả năng đưa chúng ta đạt đến cảnh giới của trí tuệ vĩnh cửu, không còn giới hạn.

2. Căn cứ vào cảnh giới của Đức Phật: Cảnh giới tự chứng của Phật là bình đẳng, không có sai biệt, lìa tất cả tướng trạng, vốn không thể dùng ý nghĩ tư duy hay lời nói mô tả mà luận bàn được. Căn cứ từ việc xa lìa vô minh, u tối mà hiển bày sự chứng ngộ để nói, thì có thể gọi cảnh giới tự chứng của Phật là pháp giới thanh tịnh như hư không trong suốt; hoặc căn cứ từ chân tính hiện chứng mà nói, thì gọi là “Tất cánh không” hoặc là “Tính Không”. Lưu Ly Quang, chính là cảnh giới tự giác của Đức Phật Dược Sư.

Trí tuệ như như khế hợp với lý như như, trong pháp giới bình đẳng hiện bày vô biên quang minh (công đức thanh tịnh) chiếu diệu vắng lặng, bình đẳng không khác, hoàn toàn không phải là một vòng đen tối, hỗn độn; nên ví dụ cho cảnh giới tự chứng của Phật là Lưu Ly Quang. Cảnh giới viên mãn của quả vị Phật là bất khả tư nghì (không thể nghĩ bàn), nên trong các kinh dùng nhân đức của Bồ tát để biểu đạt quả đức của chư Phật.

Như Đức Phật Tỳ Lô Giá Na (cũng có nghĩa là Quang Minh Biến Chiếu), dùng danh hiệu của hai vị đại Bồ tát (Bồ tát Văn Thù và Bồ tát Phổ Hiền) để tán thán "Đại trí” và “Đại hạnh” của Đức Phật. Hoặc dùng danh hiệu của bốn vị Bồ tát (Bồ tát Quán Thế Âm, Bồ tát Văn Thù Sư Lợi, Bồ tát Phổ Hiền, Bồ tát Địa Tạng Vương) để tán thán đức “Từ bi, Trí tuệ, Hạnh đức, Nguyện lực” của Đức Phật. Bản kinh này dùng danh hiệu hai vị Bồ tát Nhật Quang Biến Chiếu và Nguyệt Quang Biến Chiếu để tán thán đại trí tuệ (Nhật) và đại từ bi (Nguyệt) cứu độ tất cả mọi người, mọi loài của Đức Phật Dược Sư, giống như ánh sáng của mặt trời và mặt trăng, tỏa chiếu khắp cả thế gian. Công đức vô lượng, vô biên của Đức Như Lai ở trong đức tính của hai vị đại Bồ tát này đã hiển lộ ra một cách trọn vẹn.

Do đó, Đức Phật Dược Sư còn gọi là Lưu Ly Quang Vương Phật, quốc độ của Đức Phật ấy gọi là cõi Tịnh lưu ly. Hai danh hiệu Bồ tát Nhật Quang Biến Chiếu và Nguyệt Quang Biến Chiếu là để nói lên ý nghĩa thâm sâu này vậy. Thế giới Tịnh lưu - ở Đông phương biểu trưng cho pháp giới hiện chứng thanh tịnh của Đức Phật. Lưu Ly Quang biểu trưng cho đức tính khế chứng Vô thượng Bồ đề của pháp giới. Lưu Ly Quang (bầu trời trong xanh) là bản thể; mặt trời, mặt trăng vận hành trên nền trời xanh mà chiếu rọi ánh sáng khắp nơi. Có thể nói, tất cả đều từ diệu dụng của Lưu Ly Quang mà lưu xuất. Người Trung Hoa luôn xem trọng mặt trời, còn đối với mặt trăng thì sự ưa chuộng có phần hạn chế hơn, nên việc xem trọng sự ấm áp, quang minh và hy vọng là đã “rõ như ban ngày”.

Tuy nhiên, người Ấn Độ lại rất có hứng thú với mặt trăng. Chữ “Ấn Độ” có nghĩa là mặt trăng. Trong tư tưởng văn hóa của Ấn Độ (bao gồm cả Phật giáo), thường đặc biệt chú trọng đến đức tính an tịnh và thanh lương. Những năm trở lại đây, cục diện của thế giới ngày càng căng thẳng, trào lưu tư tưởng văn hóa càng lúc càng sôi nổi, đức tính yên tịnh, trong sáng của loài người cũng vì thế mà mỗi lúc một mất dần.

Xưa nay, động và tĩnh, náo nhiệt và an tịnh rực rỡ với tỏa nhẹ, âm áp với mát mẻ đều có sự hỗ tương nhịp nhàng để đạt đến sự cân bằng. Điều này đối với việc phát triển bản chất con người, hay sự bình ổn cục diện của thế giới đều vô cùng cần thiết. Chúng ta học Phật, từ phàm phu đạt đến quả vị của bậc Thánh, hay đạt đến cảnh giới của chư Phật thì nhất định phải phát huy đức tính này trên cả hai phương diện. Để đối trị với hạng người náo nhiệt cuồng loạn, cần chú trọng đến sự nhẹ nhàng và yên tĩnh. Đức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai đối với chuyện này đã có đầy đủ những phương tiện vô cùng viên mãn, nên mới có thể cứu chữa mọi bệnh tật, khổ nạn cho tất cả nhân sinh.

--------o0o-------

Trích: Kinh Dược Sư Và Giảng Giải Kinh Dược Sư

Tác giả: Đại Sư Ấn Thuận

Việt dịch: Thích Quảng Lâm

NXB: Tôn Giáo, 2022 - Ảnh: nguồn internet

 

 

Bài viết liên quan