TẦM ẢNH HƯỞNG CỦA TÂM TRẠNG - ĐÁNH THỨC NGUỒN NĂNG LỰC VÔ HẠN - ANTHONY ROBBINS

TẦM ẢNH HƯỞNG CỦA TÂM TRẠNG

ĐÁNH THỨC NGUỒN NĂNG LỰC VÔ HẠN - ANTHONY ROBBINS

-----o0o-----

Hiểu trạng thái của con người là chìa khóa giúp bạn sáng suốt thay đổi, đạt được nhiều điều tốt đẹp trong cuộc sống và ứng xử. Hành vi là kết quả của trạng thái con người. Ai cũng nỗ lực bằng những nguồn lực có sẵn trong bản thân mình. Nhưng đôi khi, ta thấy mình trong trạng thái không muốn làm gì cả. Có nhiều khi, vì trong tâm trạng không tốt, tôi nói hoặc hành động để sau...
TẦM ẢNH HƯỞNG CỦA TÂM TRẠNG - ĐÁNH THỨC NGUỒN NĂNG LỰC VÔ HẠN - ANTHONY ROBBINS

“Chính suy nghĩ quyết định tốt xấu. Chính nó quyết định cảm giác vui hoặc buồn, trạng thái giàu hoặc nghèo”.

_ Edmund Spenser_

Có bao giờ bạn thấy mọi chuyện đều “thuận buồm xuôi gió”. Có khi nào bạn thấy cuộc sống chẳng có gì đáng phàn nàn? Có thể đó là một cuộc thi đấu quần vợt mà mỗi lần vung cây vợt tennis lên, bạn đều ghi được điểm. Một buổi họp kinh doanh có bạn trả lời xuất sắc mọi câu hỏi và có giải pháp cho một vấn đề đang khúc mắc. Hoặc là lúc bạn ngạc nhiên về chính mình vì đã làm được một điều gì rất đáng nể, rất anh hùng mà trước đây không bao giờ bạn nghĩ mình có thể làm được. Hoặc có thể bạn có những trải nghiệm ngược lại. Một ngày dường như bị “sao quả tạ” chiếu mạng! Bạn có thể sẽ nhớ những lần bạn làm cho mọi việc rối tinh lên. Một ngày hình như bạn đã “bước chân trái ra khỏi cửa” để rồi cả ngày chẳng làm được việc gì tới nơi tới chốn. Cửa đóng im ỉm ở những nơi bạn muốn tìm sự giúp đỡ. Mọi thứ đối với bạn tựa như địa ngục.

Vậy điều khác biệt là gì? Con người của bạn vẫn thế. Bạn có thể sắp đặt mọi nguồn nội lực để khi cần là có ngay, giúp bạn luôn trong tâm trạng hưng phấn. Tại sao lúc thì có trạng thái tuyệt vời, nhưng ngay sau đó lại là buồn nản? Tại sao ngay cả một vận động viên giỏi nhất cũng có khi cảm giác mọi việc đều tốt đẹp, họ ở trên đỉnh vinh quang. Nhưng sau đó, họ không thể mua nổi một quả bóng rổ hay một cây vợt bóng chày?

Sự khác biệt chính là trạng thái thần kinh và sinh lý của con người. Có những trạng thái cho ta cảm giác ta có thể làm bất cứ việc gì. Đó là khi ta thấy tự tin tràn đầy yêu thương, sinh lực tràn trề, niềm vui ngập tràn, cảm giác phấn kích dâng tràn và tin tưởng vững chắc. Những cảm giác ấy đã khơi nguồn dòng suối của năng lực cá nhân. Nhưng cũng có khi ta cảm giác không muốn nhúc nhích chân tay. Đó là những khi ta tức giận, chán nản, sợ hãi, lo lắng, buồn bã và nổi cơn thịnh nộ. Những cảm giác ấy khiến ta bất lực. Ai cũng từng trải qua nhiều lúc tâm trạng tốt và lắm khi cố tâm trạng không tốt. Có bao giờ, vừa vào một nhà hàng, cô hầu bàn cáu kỉnh hỏi bạn: “Ông muốn gì?”. Liệu bạn có nghĩ người đó luôn giao tiếp với thái độ ấy không? Phải chăng cô ta đang trong cuộc sống khó khăn đến độ không thể vui lên được. Nhưng cũng rất có thể, cô ấy gặp một ngày xui xẻo, phải làm việc cực nhọc, phục vụ quá nhiều khách hàng và bị vài người khách đối xử khắc nghiệt với mình. Cô ta không phải người xấu. Chỉ có điều cô ấy đang trong trạng thái chán nản mà thôi. Nếu thay đổi trạng thái tinh thần của cô ta, bạn có thể thay đổi cả hành vi và thái độ của cô ta nữa.

Hiểu trạng thái của con người là chìa khóa giúp bạn sáng suốt thay đổi, đạt được nhiều điều tốt đẹp trong cuộc sống và ứng xử. Hành vi là kết quả của trạng thái con người. Ai cũng nỗ lực bằng những nguồn lực có sẵn trong bản thân mình. Nhưng đôi khi, ta thấy mình trong trạng thái không muốn làm gì cả. Có nhiều khi, vì trong tâm trạng không tốt, tôi nói hoặc hành động để sau phải hối tiếc hoặc xấu hổ. Rất có thể bạn cũng vậy. Quan trọng là phải nhở: khi ai đó đối xử không tốt với mình, hãy động lòng trắc ẩn thay vì tức giận. Hãy nhớ cô hầu bàn đã kể ở trên. Nhiều người có bản chất không giống cách hành xử của họ. Chìa khóa chính là làm chủ trạng thái.

Trạng thái được định nghĩa là tổng của hàng triệu tiến trình xử lý thông tin của hệ thần kinh diễn ra trong cơ thể con người. Nói cách khác, đó là tổng hợp của mọi kinh nghiệm ở mọi thời điểm của cuộc sống. Hầu hết trạng thái xuất hiện vô thức. Ta quan sát một sự vật hiện tượng và phản ứng bằng cách sa vào một trạng thái nhất định. Nó có thể là một trạng thái phấn khởi, một trạng thái có ích cho ta. Hoặc cũng có thể là một trạng thái chán nản, hạn chế các khả năng của ta. Nhưng đa phần con người ít có khả năng kiểm soát trạng thái tinh thần của mình. Sự khác biệt giữa người không đạt tới mục tiêu cuộc sống của mình với người thành đạt chính là họ không biết đặt bản thân vào trạng thái hữu ích. Họ khác hẳn với những người liên tục đặt bản thân vào trạng thái hỗ trợ cho hành động, giúp họ đạt được thành tựu như mong muốn.

Hầu như ai cũng muốn có trạng thái có thể làm bất cứ điều gì. Hãy lập danh sách những gì cần thiết cho cuộc sống của mình. Bạn có muốn được yêu thương không? Đúng, yêu thương là một trạng thái, một cảm xúc hay một cảm giác ta truyền tín hiệu đến não bộ. Cảm giác yêu thương sẽ tràn ngập trong ta nếu có các kích thích nhất định từ môi trường. Trạng thái tự tin ư? Trạng thái được tôn trọng ư? Ta hoàn toàn có thể tạo ra chúng. Ta tạo ra những trạng thái ấy trong ta. Có thể bạn muốn tiền. Thực ra, bạn chẳng màng tới mấy tờ giấy xanh xanh có in hình khuôn mặt vài người quá cố từ rất lâu đời. Bạn muốn thứ tiền là đại diện: tình yêu, sự tự tin, tự do, hoặc bất cứ trạng thái nào bạn nghĩ tiền có thể giúp bạn có được. Thế nên chìa khóa của tình yêu thương, niềm vui, năng lực định hướng cuộc sống của chính mình, chính là khả năng định hướng và kiểm soát được trạng thái của bản thân.

Chìa khóa đầu tiên đến với trạng thái giúp tạo thành quả như mong muốn là học cách điều khiển não bộ thật hữu hiệu. Muốn vậy, ta cần hiểu một chút về hoạt động của não bộ. Ta cần biết trước hết, cái gì đã tạo ra trạng thái. Trong nhiều thế kỷ, con người quan tâm sâu sắc tới các phương pháp chuyển đổi trạng thái tinh thần của mình, và như vậy chuyển đổi kinh nghiệm cuộc sống của chính mình. Thời xưa, họ ăn chay, dùng chất kích thích, thờ cúng, âm nhạc, tình dục, thức ăn, thôi miên và cầu kinh. Những việc làm ấy đều có phần hữu dụng và phần hạn chế. Tuy nhiên giờ đây trước mắt bạn là những phương pháp giản đơn hơn rất nhiều nhưng cũng hiệu nghiệm không kém trong rất nhiều trường hợp. Đồng thời nó có tác dụng nhanh hơn và chính xác hơn.

Nếu mọi hành vi là kết quả của trạng thái, ta có thể giao tiếp khác đi, có thái độ khác đi để có trạng thái tràn đầy sức sống, thay cho trạng thái chán nản. Nhưng điều gì tạo ra trạng thái con người? Có hai thành tố cơ bản của trạng thái. Thứ nhất đó là hình ảnh tưởng tượng của ta. Thứ hai là điều kiện và cách sử dụng bộ máy sinh lý học của cơ thể. Cách thức và nguyên nhân khiến ta hình dung về sự vật, hiện tượng. Khi đối mặt với một tình huống nhất định, bạn tự nhủ điều gì. Trạng thái và thái độ hành vi bạn dự định sẽ sử dụng để đối phó với hoàn cảnh. Ví dụ bạn đối xử với người phối ngẫu hoặc người yêu của mình như thế nào khi người ấy về nhà trễ hơn lời hứa? Hành vi của bạn phụ thuộc rất nhiều vào trạng thái khi người yêu trở về nhà. Trạng thái tùy thuộc phần lớn vào việc bạn hình dung điều gì khi tìm lý do về muộn. Nếu trong suốt nhiều giờ, bạn hình dung người yêu gặp tai nạn, toàn thân đẫm máu, tắt thở hoặc đang nằm viện, khi người ấy bước qua ngưỡng cửa, bạn sẽ chào đón với nước mắt mừng vui hoặc tiếng thở phào nhẹ nhõm. Hoặc một cái ôm hôn thật nồng thắm và hỏi chuyện gì đã xảy ra. Những hành vi ấy tạo trạng thái quan tâm. Tuy nhiên ngược lại, nếu hình dung người yêu có một mối tình vụng trộm, hoặc bạn tự nhủ nhiều lần rằng người ấy về trễ chỉ vì không quan tâm đến thời gian bạn phải chờ đợi hoặc cảm xúc của bạn, khi người yêu trở về nhà, bạn sẽ cho người ấy một cảm nhận vô cùng khác biệt với thái độ bình thường bởi đó là kết quả của trạng thái tinh thần bất an của bạn. Từ cảm giác tức giận hoặc cho rằng mình bị lợi dụng, bạn sẽ có rất nhiều loại hành vi và thái độ khác hẳn ngày thường. Vậy điều gì khiến người này hình dung sự việc để tạo trạng thái quan tâm, còn người khác lại hình dung cách khác khiến bản thân phải mang trạng thái nghi ngờ hoặc tức giận? Thực ra, có nhiều nếp suy nghĩ. Có thể ta bắt chước phản ứng của cha mẹ mình hoặc những người khác có trải nghiệm giống ta. Ví dụ, nếu khi còn nhỏ, mẹ ta luôn lo lắng khi cha về trễ, ta cũng có thể nghĩ ra đủ thứ chuyện gây lo lắng. Nếu mẹ luôn nói bà không tin tưởng cha, rất có thể bạn cũng bắt chước. Như vậy niềm tin giá trị thái độ và cách trải nghiệm quá khứ của ta với một người đặc biệt hoàn toàn ảnh hưởng tới hình ảnh tưởng tượng sẽ tạo khuôn mẫu cho hành vi của ta.

Có một thành tố thậm chí còn quan trọng và hữu dụng hơn trong cách chúng ta cảm nhận và hình dung về thế giới: đó là điều kiện và khuôn mẫu ta sử dụng dựa vào tình trạng sinh lý học của chính ta. Những thành tố như căng thẳng cơ bắp, thức ăn, cách hít thở, tư thế, chức năng hoạt động sinh hóa của chúng ta... đều tác động mạnh mẽ đến trạng thái của ta. Những hình ảnh trong tâm tưởng và cơ chế sinh lý học cùng kết hợp với nhau trong vòng luân chuyển điều khiển học của cơ thể. Bất cứ điều gì ảnh hưởng tới một mặt cũng đồng thời ảnh hưởng đến các mặt kia. Thế nên, trạng thái thay đổi đòi hỏi hình ảnh tưởng tượng và cơ chế sinh lý học cùng thay đổi. Nếu vào lúc đáng lẽ con cái, vợ chồng hoặc người yêu của bạn phải có mặt ở nhà, cơ thể bạn đang trong trạng thái tràn đầy sức sống, có thể bạn sẽ nghĩ người ấy đang bị kẹt xe trên đường trở về nhà hoặc đang trên đường về. Tuy nhiên, nếu vì nhiều lý do, trạng thái sinh lý học của bạn bao gồm các cơ căng thẳng, hoặc hoàn toàn mệt mỏi, hoặc đang bị đau hay bị hạ đường huyết, bạn sẽ có xu hướng tưởng tượng sự việc theo cách cường điệu những cảm xúc tiêu cực. Hãy suy nghĩ một chút: khi về mặt thể chất, bạn tràn đầy sức sống và hoàn toàn phấn khởi, phải chăng nhận thức của bạn về thế giới khác hẳn với trạng thái mệt mỏi hoặc ốm đau? Những điều kiện của trạng thái sinh lý học thực sự thay đổi cách bạn suy tưởng. Phải chăng nếu cảm tưởng về thế giới vào lúc thấy mọi việc đều gây khó chịu hoặc tức tối, có phải cơ thể bạn cũng thích ứng và trở nên căng thẳng? Thế nên hai thành tố, hình ảnh tưởng tượng và cơ chế sinh lý học liên tục tương tác với nhau để tạo ra trạng thái của con người chúng ta. Trạng thái, đến lượt nó sẽ quyết định hành vi thuộc loại gì. Thế nên, để làm chủ và định hướng cho hành vi, ta nhất định phải làm chủ và định hướng trạng thái của bản thân. Để kiểm soát trạng thái, ta nhất định phải kiểm soát và định hướng một cách có ý thức những hình ảnh trong tâm tưởng và cơ chế sinh lý học của cơ thể. Nếu bất cứ lúc nào bạn cũng làm chủ được trạng thái của mình một cách tuyệt đối thì sẽ tuyệt biết mấy, phải không?

Trước khi định hướng cho trải nghiệm, trước tiên ta phải hiểu quá trình trải nghiệm diễn ra như thế nào. Là một loài động vật hữu nhũ, con người nhận và xử lý thông tin về môi trường xung quanh thông qua các giác quan. Có năm giác quan, vị giác, khứu giác, thị giác, thính giác và xúc giác. Ba giác quan là thị giác, thính giác và xúc giác ảnh hưởng đến hành vi và quyết định nhiều nhất.

Những cơ quan đặc biệt này chuyển kích thích bên ngoài tới não bộ. Thông qua quá trình tổng hợp, xử lý và xóa bỏ thông tin, não bộ có nhiều tín hiệu điện từ và lọc chúng thành những hình ảnh tưởng tượng trong tâm trí.

Như vậy, hình ảnh tưởng tượng và trải nghiệm của ta về mọi sự kiện không chính xác là những gì xảy ra ngoài thực tế. Thực ra nó đã được cá nhân hóa và được tái thể hiện lại trong tâm trí bạn. Phần não bộ có ý thức của một cá nhân không thể sử dụng hết mọi tín hiệu được gởi tới. Có lẽ ta sẽ phát điên nếu luôn ý thức tiếp nhận hàng ngàn kích thích tác động đến ta, từ dòng máu chảy qua đầu ngón tay cho tới những rung động của màng nhĩ. Thế nên não bộ lọc và lưu trữ những thông tin nó cần hoặc dự định sẽ cần tới sau này và cho phép phần trí não có ý thức của cá nhân loại đi những thứ còn lại.

Tiến trình lọc giải thích hiện trạng mỗi người có cách nhận thức riêng. Hai người cùng chứng kiến một tai nạn giao thông nhưng có đánh giá hoàn toàn khác nhau. Người này chú ý nhiều hơn tới những gì nhìn thấy. Người kia lại chú ý nhiều hơn tới những gì mình nghe thấy. Thế nên họ nhìn nhận sự việc ở những góc cạnh khác nhau. Cả hai có cơ chế sinh lý học riêng biệt để bắt đầu tiến trình nhận thức. Người này mắt rất tinh: 10/10, còn người kia bị cận thị. Người này từng bị tai nạn giao thông và hình dung cảnh tai nạn kia thật sống động. Còn người kia chi coi đó là chuyện qua đường. Dù sao chăng nữa, hai người có những hình ảnh tưởng tượng khác nhau về một cùng một sự kiện. Và họ tiếp tục lưu trữ nhận thức và hình ảnh trong tâm tưởng và chúng đóng vai trò thiết bị lọc mới. Thông qua những thiết bị lọc mới này, cả hai sẽ trải nghiệm sự vật hiện tượng trong tương lai theo cách riêng.

Có một khái niệm quan trọng được sử dụng trong lĩnh vực của NLP: “bản đồ không phải là lãnh địa thực”. Như khoa học gia Alfred Korzybski đã ghi nhận trong tác phẩm Khoa học và óc minh mẫn: “Những tính chất quan trọng của bản đồ nhất định phải được ghi nhớ: bản đồ không phải là vùng đất mà nó đại diện. Nhưng nếu bản đồ chính xác, nó sẽ tương tự vùng đất ấy và tính hữu dụng của bản đồ sẽ là đáng kể”. Với từng cá nhân, ý nghĩa lời ông nói là: những hình ảnh tưởng tượng trong tâm trí không phải là bản dịch chính xác của hiện tượng. Nó chỉ là sự diễn dịch thông qua quá trình thanh lọc. Các phương tiện thanh lọc là những niềm tin, thái độ, giá trị của từng người và một thứ có tên gọi là lập trình tư tưởng. Có thể chính vì thế nên Einstein đã từng nói: “Bất cứ ai tự cho mình có quyền phán xét trong lĩnh vực của chân lý và kiến thức sẽ thất bại hoàn toàn và bị các thiên thần cười chê”.
 

Ta không thể biết thực sự mọi việc xảy ra như thế nào, bản chất của sự vật hiện tượng ra sao. Ta chỉ biết thứ ta hình dung trong tâm tưởng. Vậy tại sao ta không hình dung sự vật hiện tượng theo cách mang lại sức mạnh cho bản thân ta và người khác, thay vì tạo ra giới hạn cho chính mình? Chìa khóa để làm việc này một cách thành công là cách kiểm soát ký ức. Là cách hình thành những hình ảnh trong tâm tưởng khiến nó liên tục tạo ra những trạng thái tràn trề sức sống cho con người. Trong một trải nghiệm bất kỳ, có rất nhiều thứ khiến ta tập trung. Dù một bác thợ cả thành công nhất cũng có thể nghĩ có việc gì đó không ổn và người đó sẽ lâm vào trạng thái chán nản tức tối hoặc giận dữ. Ngược lại, nếu thay đổi cách suy nghĩ, bác ta sẽ chỉ tập trung vào những sự vật hiện tượng mang thuận lợi cho cuộc sống của mình. Dù hoàn cảnh có kinh khủng đến mức nào, bạn vẫn có thể hình dung hoàn cảnh ấy theo cách mang lại sức sống niềm phấn khởi cho mình.

Đó chính là thứ chúng tôi đã làm trong buổi trình diễn đi trên than hồng. Nếu tôi yêu cầu bạn đặt sách xuống, lập tức đi trên thảm than hồng, rất có thể bạn sẽ chẳng đứng lên và làm theo đâu. Đó không phải là thứ bạn tin mình có thể làm được và có thể bạn chưa có những cảm xúc tràn đầy sức sống và trạng thái tinh thần giúp bạn vượt qua được nhiệm vụ ấy. Thế nên, khi tôi nói hãy đi trên than hồng, bạn sẽ không có được trạng thái hỗ trợ cho bạn hành động một cách thích hợp khi đi trên thảm than đang đỏ rực. Việc đi trên than hồng dạy cách thay đổi trạng thái và hành vi giúp mang lại sức mạnh hành động cho mình. Sau đó, để sẵn sàng hành động thay vì sợ hãi những yếu tố tạo nên rào cản cho mình. Những người đi trên than đỏ trước đây cũng đã từng nghĩ họ không thể đi như vậy. Nhưng họ đã học cách thay đổi cơ chế sinh lý học của mình. Biết cách thay đổi hình ảnh tưởng tượng về nào có thể làm việc nào không. Thế nên khi bước đi trên than đỏ trạng thái của họ đã thay đổi từ trạng thái sợ hãi đến trạng thái biết rõ khả năng của mình. Giờ đây, họ có thể đặt mình vào một trạng thái tràn đầy nghị lực. Từ trạng thái đó, họ có thể hành động hoặc giành các thành quả trước đây từng cho rằng bất khả thi.

Chìa khóa để có thành quả như mong muốn chính là hình dung sự vật hiện tượng theo cách có thể đặt bản thân vào trạng thái tràn đầy sức sống khiến cho ta thấy mạnh mẽ để hành động một cách hiệu quả nhất như mong muốn. Không làm được điều này đồng nghĩa thất bại, dù có nỗ lực nhưng chỉ nỗ lực nửa vời yếu ớt nên không đạt được thành quả. Nếu tôi nói: “Nào hãy cùng bước đi trên than đỏ”, có nghĩa là kích thích mà tôi tạo ra cho bạn qua lời nói và cử chỉ sẽ đi thẳng tới não bộ của bạn. Nếu bạn hình dung một nhóm thổ dân đeo khuyên trên mũi đang tham gia vào một buổi tế lễ khủng khiếp, hoặc cảnh thiêu sống người ta, bạn không thể có được trạng thái tinh thần tốt. Nếu bạn hình dung bạn sẽ bị bỏng thì trạng thái tinh thần thậm chí còn tồi tệ hơn.

Tuy nhiên, nếu hình dung mọi người đang vỗ tay cùng nhảy múa và chúc tụng, nếu hình dung một cảnh hoàn toàn vui vẻ và phấn kích, trạng thái sẽ khác ngay. Nếu hình ảnh tưởng tượng là bạn đang bước đi mạnh mẽ, vui vẻ, miệng nói: “Vâng, tôi hoàn toàn làm được”, rồi di chuyển như thể đang trong trạng thái hoàn toàn tự tin, những tín hiệu đến thần kinh sẽ đặt bạn vào một trạng thái khiến cho bạn có thể chấp nhận hành động và bước đi trên lửa đỏ. Mọi việc xảy ra trong cuộc sống đều diễn ra theo trình tự ấy. Nếu hình dung mọi việc sẽ không suôn sẻ, chúng sẽ không suôn sẻ thật. Nếu hình dung rằng mọi việc đều thuận lợi, ta sẽ tạo ra nguồn lực nội tâm cần thiết để có một trạng thái hỗ trợ cho việc giành những thành quả tích cực. Sự khác biệt giữa những người ưu tú xuất sắc như Ted Turner, Lee Iacocca, W. Mitchell, v.v...là họ hình dung thế giới này là nơi tạo ra thành quả họ mong muốn nhất. Tất nhiên, thậm chí trong những trạng thái tốt đẹp nhất, không phải lúc nào ta cũng có được những thành quả như mình mong muốn. Nhưng khi có trạng thái thích hợp, ta sẽ có khả năng lớn nhất cho ta cơ hội sử dụng mọi nguồn lực mình có một cách hữu hiệu nhất.

Câu hỏi logic kế tiếp là: nếu hình ảnh tưởng tượng kết hợp với cơ chế sinh lý học để tạo trạng thái khởi nguồn cho hành vi, điều gì quyết định loại hành vi cụ thể? Người này, trong trạng thái tràn đầy tình yêu thương, sẽ ôm chầm lấy bạn. Người khác chỉ nói “rất mến bạn” mà thôi. Câu trả lời là: khi ta ghi nhận một trạng thái, trí não có khả năng lựa chọn hành vi. Số lượng những hành vi ấy được quyết định bởi hình ảnh khuôn mẫu về thế giới bên ngoài. Có người khi tức giận có khuôn mẫu phản ứng với hoàn cảnh bên ngoài. Thế nên, họ có thể hiểu hoàn cảnh theo cách lúc thơ bé đã học hỏi được khi quan sát cha mẹ mình. Hoặc có thể họ chỉ thử nghiệm một thái độ nào đó và thấy thái độ ấy là thứ họ cần. Thế nên, một ký ức được lưu trữ về việc làm thế nào để phản ứng trong các hoàn cảnh tương tự ở tương lai đã hình thành.

-----o0o-----

Trích “Đánh Thức Nguồn Năng Lực Vô Hạn”

Tác giả: Anthony Robbins

Người dịch: Tuyết Minh

NXB Từ điển Bách khoa, 2007.

 

Bài viết liên quan