TÌNH YÊU THƯƠNG VÔ ĐIỀU KIỆN, NIỀM HÂN HOAN VÀ SỰ XUẤT THẦN (MỨC ĐỊNH CHUẨN 540-599) - TÁC GIẢ: DR. DAVID R. HAWKINS

Tình Yêu thương vô điều kiện, Niềm hân hoan và Sự Xuất thần (MỨC ĐỊNH CHUẨN 540-599)

TÁC GIẢ: DR. DAVID R. HAWKINS.

BẢO HẠNH DỊCH VIỆT, @2023.

---o0o--

vì sự cam kết và ý định, có niềm tin chắc chắn rằng vâng, điều này cũng phải được phó thác cho Thượng Đế và với sự phó thác của nó, một sự Bình an vô hạn chiếm ưu thế vượt quá mọi sự hiểu biết hoặc mô tả ở mức độ 600. Điều kiện cho thấy chính nó là sự hiện thực hoá của cái gọi là An lạc của Thượng Đế.
TÌNH YÊU THƯƠNG VÔ ĐIỀU KIỆN, NIỀM HÂN HOAN VÀ SỰ XUẤT THẦN (MỨC ĐỊNH CHUẨN 540-599) - TÁC GIẢ: DR. DAVID R. HAWKINS

Tình Yêu thương vô điều kiện, Niềm hân hoan và Sự Xuất thần (MỨC ĐỊNH CHUẨN 540-599)

TÁC GIẢ: DR. DAVID R. HAWKINS.

BẢO HẠNH DỊCH VIỆT, @2023.

---o0o--

     Sir. David R. Hawkins, MD., Phd (1927–2012). Ông là Tiến sĩ, bác sĩ tâm thần, nhà nghiên cứu nhận thức và vị thầy tâm linh nổi tiếng người Mỹ. Một người có uy tín, được biết đến rộng rãi trong lĩnh vực nghiên cứu ý thức và tâm linh, đã viết và giảng dạy từ quan điểm độc đáo của một nhà lâm sàng, nhà khoa học và nhà thần bí có kinh nghiệm. Ông được vinh danh một cách chi tiết trong danh sách Who’s Who in America (Ai là ai ở Mỹ)”  and Who’s Who in the World ( Ai là ai trên thế giới)”. Các tác phẩm của ông đã được nhiều nhà lãnh đạo thế giới và những người đoạt giải Nobel, bao gồm cả Mẹ Teresa, ca ngợi. Năm 1995, ông được được nhận huân chương hiệp sĩ y viện Binh đoàn Tối cao của Thánh John thành Jerusalem. Ông cũng được nhiều tổ chức và cá nhân toàn thế giới thừa nhận như "Bậc thầy hàng đầu của sự khai sáng" và một vị Bồ tát. 

     Cuộc đời của ông hoàn toàn dành cho sự tiến hoá của nhân loi. Ông làm việc không mệt mỏi. Ngay cả ở tuổi tám mươi, Tiến sĩ Hawkins duy trì một lịch trình dày đặc của các bài giảng, các cuộc phỏng vấn trên đài phát thanh và các dự án sách. Ông  thuyết trình rộng rãi tại các trường đại học và học viện, và cho các hội nhóm tâm linh, các tu viện Công giáo, Tin lành và Phật giáo. Tương tự như những vị thầy tâm linh cao cấp khác (Mẹ Teresa, Ramana Maharshi), rất nhiều người đến từ khắp nơi trên thế giới để gặp ông, nói rằng "hào quang" hoặc "ánh hào quang" của ông có tác dụng biến đổi thông qua "sự truyền âm thầm."

—o0o---

Hiện tượng Tâm linh: các Siddhi

     Từ mức độ ý thức 540 đến các mức độ cao hơn trong khoảng 500, các hiện tượng xảy ra một cách tự phát mà không thể giải thích được bằng lý lẽ, khái niệm thông thường của logic, hay quan hệ nhân quả. Chúng đi kèm với sự chiếm ưu thế tăng dần của năng lượng tâm linh (kundalini) và xảy ra như là một hệ quả của trường ngữ cảnh chứ không phải do hành động. Chúng được chứng thực và nhìn thấy diễn ra một cách tự động. Chúng được gọi một cách kinh điển là các siddhi (tiếng Phạn) và có ý nghĩa là ‘siêu nhiên’ hoặc ‘sức mạnh thần kỳ/ thần bí’, vì chúng không thể giải thích được bằng logic.

     Trong những giai đoạn đầu xuất hiện, chúng có thể lẻ tẻ, nhưng khi ý thức tiến bộ, chúng trở nên thường xuyên và đôi khi liên tục. Chúng phát sinh theo cách riêng và nằm ngoài ý muốn. Chúng bao gồm các khả năng như nhìn thấy từ xa, biết trước, thấu thị, thấu thính, nhận thức ngoại cảm (tri giác siêu giác quan), thấu chạm, phân thân và sự xuất hiện của những điều kỳ lạ, bao gồm sự chữa lành và chuyển hoá một cách tự nhiên. Ngoài ra còn có những hỗ trợ lạ lùng nằm ngoài sự mong đợi hay không thể giải thích được.

     Các năng lực hoặc hiện tượng không nằm trong tầm kiểm soát của cá nhân; chúng không phải là hệ quả của ‘nguyên nhân và kết quả’. Do đó, người học được cảnh báo trước là không được cho chúng là mang tính cá nhân vì chúng diễn ra độc lập vi cái ‘tôi’ hoặc bản thân của người đó. Vì vậy, như đã nói trước đây, không có ‘người’ nào làm ra các phép lạ mà chúng chỉ là kết quả của Thánh Linh. Sự thổi phồng của cái tôi tâm linh được ngăn chặn bởi tính trung thực và khiêm tốn, điều này dẫn đến sự xúi giục của việc lợi dụng nhằm kiếm lợi.

     Các hiện tượng có xu hướng xuất hiện và trở nên mạnh mẽ trong nhiều năm. Một số dường như biến mất và trở nên ít nổi trội hơn, trong khi những hiện tượng khác diễn tiến liên tục.

     Dòng chảy năng lượng tâm linh kundalini tự nó là phi thường, trong đó, cảm giác chỉ có thể được mô tả một cách chủ quan là vi diệu khi nó chảy lên dọc theo sống lưng và đi vào não bộ, xuất hiện như thể thông qua luân xa tim, và sau đó đi ra thế giới nơi sự hiện diện của nó tạo điều kiện cho sự mở ra của điều kỳ diệu thực sự. Những xuất hiện này được chứng kiến như đang xảy ra mà không có chủ đích. Có vẻ như những phẩm tính Thần thánh được thể hiện qua những cảnh giới cao hơn, vượt lên trên thế giới vật chất trần tục.

     Cuối cùng, điều ‘phi thường’ hiển lộ trở thành một thực tại mới như thể người ta hiện đang sống trong một chiều không gian khác, ở đó điều dường như không thể biểu thị một cách dễ dàng lại như thể đã được sắp đặt. Sức mạnh của trường, một cách tự động, tạo điều kiện thuận lợi cho việc biến khả năng của nghiệp trở thành một thực tại được biểu hiện trong một diễn biến hài hòa. Các động lực là phi tuyến tính và do đó không thể hiểu được đối với trí óc, vốn tin vào những hạn chế của mô hình Newton tuyến tính về quan hệ nhân quả và không thể hình dung khái niệm về đột sinh, Mệnh lệnh Thiêng liêng hay Sự Hài hòa.

Niềm Hân hoan và Sự Xuất thần mang tính siêu vượt

     Việc phó thác tất cả những niềm tin giới hạn, những sự định vị, sự nghi ngờ và bám chấp cho phép dòng năng lượng tâm linhtuôn chảy, điều này vốn đi kèm với sự hiến dâng (mức định chuẩn 555). Sự hiến dâng bền bỉ đối với tình yêu thương và sự thật tâm linh cho phép chấm dứt các phản kháng. Sự siêu vượt đòi hỏi phải từ bỏ mọi bám chấp, ngay cả những thứ bị bản thân và xã hội phân định là ‘trách nhiệm’. Do đó, các mối quan hệ, địa vị, chức danh và vai trò xã hội cui cùng bị bỏ lại để cam kết cho việc chứng ngộ Tự Ngã hoặc đạt đến trạng thái Giác ngộ. Tín đồ bất đắc dĩ cố chấp nghi ngờ và thắc mắc một cách ngây ngô, Nhưng đó là gì? Giải pháp là phó thác tất cả ‘nhưng mà còn’ cho Thượng đế và Dự tính của Ngài.

     Một quá trình chuyển biến lớn lao cũng đòi hỏi trách nhiệm đối với những người khác bằng cách thực hiện những điều chỉnh cần thiết và thực tế và giúp những người khác chấp nhận những thay đổi phải có. Do đó, quá trình chuyển đổi này có thể đòi hỏi sự can đảm và kiên nhẫn cũng như niềm tin đáng kể, vì nó làm bật lên những nghi ngờ, bám chấp, cảm giác tội lỗi và những điều tương tự còn sót li.

     Kết quả có thể xảy ra của một bước nhảy vọt lớn trong ý thức hiếm khi được xem là một khả năng mang tính nghiêm túc, ít xảy ra hơn nhiều, trong số hầu hết những người khao khát tâm linh, những người, trừ khi được báo trước, có thể đã không thực hiện các kế hoạch dự kiến. Do đó, những người học đạo nghiêm túc cần được thông báo và cũng có những cộng sự tâm linh hoặc những mối quan hệ có khả năng nhận ra các trạng thái nâng cao của ý thức.

     Trạng thái bên trong đang dần chiếm ưu thế khi bản ngã giảm dần do bị bào mòn bởi Tự Ngã. Những hệ quả của thay đổi, cả bên trong và bên ngoài, hóa ra lại lớn hơn dự đoán.

     Sự xuất hiện của các mức độ ý thức ngày càng cao đòi hỏi những khoảng thời gian điều chỉnh, giống như khi đeo một cặp kính mới, và do đó, những hoạt động thế tục có thể bị suy giảm theo từng giai đoạn do những thay đổi về định hướng, sắp xếp. Trong sự tái định hướng, tái sắp xếp này, các hiện tượng được phát hiện là đang tự xảy ra một cách tự phát chứ không phải thông qua tiền đề và tri giác được giả định thông thường về nhân quả.

     Vui thích không còn là thứ mà người ta có được. Nó là hệ quả tự có từ năng lượng của trường này hơn là thông qua quyết định của một tổ chức hay cá nhân. Người ta cũng dần dần phát hiện ra rằng thực ra không có ‘người làm’ ra các hành động, và người ta chứng kiến ​​sự bộc lộ độc lập của tiềm năng nghiệp từ một hệ hình thực tại mới vượt ra ngoài nguyên lý nhân quả nhị nguyên giả định. Vì vậy, đời sống trở thành một chuỗi bất tận của những khám phá về sự quyến rũ và thú vị nội tại mà thoạt đầu có vẻ tuyệt vời. Sau đó, nhận ra rằng những gì có vẻ kỳ diệu chỉ là sự hé mở liên tục về tiềm năng tiến hóa của Tạo hoá mà theo đó kinh nghiệm chủ quan về thời gian biến mất và được thay thế bằng sự hiểu biết về tất cả mọi thứ như nó là. Tương tự như vậy, tri giác về ‘thay đổi’ được thay thế bằng sự xuất hiện ngày càng gia tăng của tính liên tục của Tạo hoá khi trở nên thoả mãn hoàn toàn do hiện thực hoá tiềm năng thành biểu lộ.

     Không có quá khứ và tương lai và tương tự như vậy không có ‘bây giờ’, và có thể hiểu rằng quá khứ, hiện tại hoặc tương lai đều là những bối cảnh ảo tưởng được tạo ra do giới hạn của một hệ hình. Với sự đầu hàng của tất cả các hệ thống niềm tin và sự định vị, sự mở ra của Tạo hoá là sự tự biểu lộ. Quá trình diễn ra có thể đưa đến những sự phô bày, sự không chắc chắn hoặc sự nghi ngờ nhất thời khiến bạn phải phó thác cho đức tin và lòng sùng mộ vì rất hiếm khi có một vị thầy tâm linh cấp cao thực sự để tham vấn. Tại những điểm này, cái Biết vốn có như một tần số rung động trong trường ý thức, tự nó mở ra và bộc lộ thực tại của hệ hình mới xuất hiện. Do hiệu lực của Sự Rạng ngời của Tự Ngã, những ánh hào quang lặng lẽ lộ ra. Thế giới sau đó trở thành một sự hiển lộ của Tinh Tuý hơn là một hiện tượng.

     Sự tự bộc lộ ngày càng được rõ biết và xác định bởi cái Biết là Cái Thiêng Liêng. Sự thay đổi lớn của hệ hình không thể được dự đoán hoặc thậm chí thực sự tưởng tượng ra, và sự khởi đầu của nó đôi khi được mô tả một cách khó hiểu là ‘cú sốc của Chúa’. Hậu quả là sự kinh hãi sâu sắc làm cho tâm trí trở nên im bặt trước sự hiện diện của Cái Thiêng Liêng và biến mất ở mức độ 600. Từ đó trở đi, tất cả chỉ đơn thuần như một sự mở ra liên tục, tự nó không có bắt đầu hay kết thúc cũng như không có sự phân chia như ‘trước đây’, bây giờ' hoặc ‘tương lai’. Chứng ngộ không còn xảy ra như một hệ quả của tinh thần, suy nghĩ, hoặc bởi các tác nhân của cái tôi cá nhân do bởi nó không còn tồn tại nữa.

     Tuân thủ các nguyên lý tâm linh cơ bản là điều kiện cần thiết cho sự chuyển hoá quan trọng, và trong số này, đức tin, sự tận tâm và phó thác là những thể thức chính của nó. Nó chỉ đơn thuần đòi hỏi sự phó thác bất kỳ hệ thống niềm tin nào cũng như tất cả các hệ thống niềm tin và sự hiểu biết rằng mọi nỗi sợ hãi chỉ là ảo ảnh chỉ do bởi bám níu vào một sự định vị và những tri giác của nó, bao gồm cả sự dính mắc và niềm tin của một người vào hệ hình ‘thực tại’ quen thuộc, thông thường. Không có gì thực sự là cách bản ngã đã nhận thức nó vì chiều tuyến tính chỉ đơn thuần là giả định và sự Tuyệt đối phi tuyến tính là một hệ hình rất khác hoạt động trên các nguyên tắc hoàn toàn khác tự bộc lộ thay vì thấu hiểu hoặc lĩnh hội theo trình tự.

     Trong Thực tại, ‘sự tồn tại’ là ý nghĩa của nó và đồng nhất với nó. Không có chủ ngữ, vị ngữ hay động từ, và sự thấu suốt nằm ngoài ngôn ngữ. Như có thể trình bày rõ nhất, ‘ý nghĩa’ của một sự vật cái nólà. Bản sắc ý nghĩa của nó. Nó trở nên rõ ràng là tất cả mô tả và định nghĩa đều là những sự trừu tượng hóa và tâm lý hoá mang tính nhị nguyên nhằm cụ thể hoá định nghĩa nguyên thuỷ một cách vòng vo. Sự Thật là tự động rõ ràng, bởi vì hiệu lực từ sự hiện diện của nó là cái Toàn thể. Không có sự giả định về sự tách biệt nhị nguyên giữa chủ thể và đối tượng giả định, Tính Nhất thể trùm khắp của Hữu thể là định nghĩa và ý nghĩa ca chính nó. Như vậy, một con mèo ‘biết’ nó là một con mèo bởi vì nó là một con mèo và do đó không bị tách rời khỏi thực tại ca chính nó một cách nhị nguyên. Người biết và cái được biết là một và cùng một bản sắc.

     Sự siêu vượt của trạng thái xuất thần và niềm hân hoan tâm linh tùy thuộc vào sự sẵn sàng phó thác tất cả cho Thượng Đế, bất kể điều gì, kể cả trạng thái xuất thần tinh tế, thuộc một chiều kích không thể diễn tả được. Bản thân trạng thái bây giờ là một sự cám dỗ và có thể trì hoãn sự tiến hóa đến trạng thái Giác ngộ. Lúc đầu, có sự miễn cưỡng và mất tinh thần khi phó thác một trạng thái tuyệt vời như vậy cho Thượng Đế, tuy nhiên, có một sự hiểu biết nảy sinh rằng ngay cả điều kỳ diệu này cũng phải được giải phóng. Nỗi đau khổ và do dự khi phải thực hiện bước này cho thấy rằng sự bám chấp với hoàn cảnh và điều kỳ diệu của nó đã xảy ra một cách vô ý. Sau đó, vì sự cam kết và ý định, có niềm tin chắc chắn rằng vâng, điều này cũng phải được phó thác cho Thượng Đế và với sự phó thác của nó, một sự Bình an vô hạn chiếm ưu thế vượt quá mọi sự hiểu biết hoặc mô tả ở mức độ 600. Điều kiện cho thấy chính nó là sự hiện thực hoá của cái gọi là An lạc của Thượng Đế.

 

Đoạn trích từ:

Transcending the Levels of Consciousness - The Stairway to Enlightenment (Siêu vượt qua các Mức độ của Ý thức - Nấc thang dẫn đến Giác ngộ). Tác giả: Dr. David R. Hawkins. Bảo Hạnh dịch Việt, @2023.

Tác giả: Dr. David R. Hawkins.

Bảo Hạnh dịch Việt, @2023.

Ảnh: Nguồn Internet

 

Bài viết liên quan