TÔN GIÁO VÀ KHOA HỌC - Bức Thư Xuân Gửi Giáo Sư Nguyễn Hoàng Phương

TÔN GIÁO VÀ KHOA HỌC

Bức Thư Xuân Gửi Giáo Sư Nguyễn Hoàng Phương

Tác giả: Nguyễn Thế Đăng

Với trình độ kiến thức thông thường ngày nay, bất kỳ ai cũng có thể kể ra nhiều những sự tương đồng để chứng tỏ sự giao thoa giữa hai nền văn minh Đông Tây. Cũng vì thế mà trong “Tuyên ngôn Venise” của Unesco, do nhiều nhà bác học được giải Nobel ký tên, đã xác nhận rằng “khoa học đã tiến tới một biên giới, nơi đó sự gặp gỡ của khoa học và những truyền thống tâm linh là...
TÔN GIÁO VÀ KHOA HỌC - Bức Thư Xuân Gửi Giáo Sư Nguyễn Hoàng Phương

Thưa giáo sư, lần đầu tiên được đọc và biết đến giáo sư là bài viết “Vô thức trong văn học nghệ thuật” của giáo sư đăng trên tạp chí Sông Hương năm 1989. Bài viết ấy đã gây một sự ngạc nhiên và chú ý cho tôi, một độc giả và là một người hiểu biết Đông Phương tầm thường. Ngạc nhiên và chú ý vì đây là lần đầu tiên vấn đề vô thức, một chủ đề của phân tâm học Tây phương khởi đầu với Sigmund Freud, một chủ đề hầu như không được quan tâm nhắc đến ở các nước XHCN trước thời kỳ đổi mới, lại được giáo sư bàn đến trong tinh thần của Đạo học Đông phương. Cái vô thức ấy đã làm cho các học giả Tây phương xích lại với Đông phương, như Carl Jung trong bài tựa cuốn The Tibetan Book of The Dead, hoặc như nhà Thiền học Nhật Bản D.T.Suzuki đã dịch chữ ‘Vô tâm’ của Thiền theo ngôn ngữ Tây phương là ‘Vô thức’ (xem các bài thảo luận của học giả Đông Tây trong Zen Buddhism and Psychanalysis).

 

Sự chú ý đó là một khuynh hướng đã được tiên tri trước bởi những người Đông Phương: trong cuốn ‘Letters on occult meditation’ xuất bản ở NewYork năm 1922 của một vị được xưng là vị Chân sư Tây Tạng đã nói rằng tâm lý học chiều sâu của Tây phương sẽ là một cầu nối để khoa học Tây phương bắt về Đạo học Đông phương.

Thưa giáo sư, từ đó tôi đã đọc những gì giáo sư viết mà có thể kiếm được trên thị trường sách báo, trong chủ đề của giáo sư là đứng trên mảnh đất khoa học Tây phương - mà giáo sư là người có thẩm quyền với tư cách là một giáo sư về vật lý lý thuyết – để tìm hiểu, giải thích và tìm về nguồn văn minh Đông phương. Đó cũng là một chủ đề lớn của đạo Phật: nhiếp ngọn trở về gốc.

Trong bức thư gửi bác sỹ Kaspirovsky, giáo sư viết: “Khoa học hiện đại của hành tinh này chỉ mới bước được bước đầu, đó chỉ là nền văn minh vật lý, được xây dựng trên một hệ quy chiếu về logic không gian và thời gian giới hạn. Các hiện tượng sinh học, tâm lý học nằm trong một hệ quy chiếu rộng hơn, toàn diện hơn, vì thế nằm ngoài tầm hiểu biết của vật lý học. Vật lý học hiện đại đang vấp phải nhiều khó khăn về các vấn đề khối lượng, về trường hấp dẫn, về những năng lượng hết sức cao… Ở phương Đông, các nhà minh triết cho rằng vật chất có 7 tầng, tầng thấp nhất là tầng vật lý, các tầng trên có tần số và mật độ vật chất cao hơn …”

Chỉ nói riêng trong đạo Phật, một kinh phổ thông là kinh Lăng Nghiêm, nói rằng tất cả vũ trụ từ thô đến tế có 7 tầng, gọi là 7 đại (địa đại, thủy đại, hỏa đại, phong đại, không đại, thức đại và kiến đại). Theo minh triết Đông phương, “thiên nhân tương dữ”, “thiên nhân hợp nhất”, thì con người là một tiểu vũ trụ đồng thể với đại vũ trụ bên ngoài. Vì thế bằng thiền định, con người có thể khám phá 7 tầng vật chất tạo ra thân tâm mình, và do đó cũng đồng thời hiểu biết được toàn bộ vũ trụ có 7 tầng ở ngoài mình. Minh triết Đông phương nói rằng: Muốn hiểu biết thế giới hãy hiểu biết chính con người mình. Giáo sư cũng đưa ra nhận xét: “Với trình độ phát triển còn đơn sơ của nhân loại chúng ta, chúng ta chưa băng qua hết được tầng vật lý thứ nhất với 4 chiều, chỉ có các nhà yogi siêu phàm, các bậc A La Hán, Bồ Tát, mới thông suốt được cái thế giới nhiều chiều (có thể là 10 chiều) ấy của vũ trụ” (tạp chí Thế Giới Mới số tháng 9/1990).

 

Cũng phải nói thêm rằng đối với đạo Phật, biết rõ cơ cấu của vũ trụ thì cũng đồng thời giải thoát khỏi vũ trụ: không còn bị lệ thuộc vào cơ cấu 7 tầng của vũ trụ sanh diệt nữa. Đó cũng là một điểm khác biệt căn bản giữa khoa học Tây phương và đạo Phật: khoa học Tây phương biết là để áp dụng vào kỹ thuật nhằm hưởng thụ và do đó lệ thuộc vào vật chất, còn đạo Phật biết là để không còn bị lệ thuộc vào vật chất nữa, nghĩa là giải thoát.

 

Trong cuốn Con người và Trường sinh học, giáo sư đã kể ra nhiều nghiên cứu hiện đại, với các thí nghiệm và giải thích đã đánh tan phần nào các ý kiến cho rằng tôn giáo là mê tín và mơ hồ. (Nhưng có phải rằng những người cho tôn giáo là mê tín lại chính là những người đã mê tín vào một thứ khoa học đơn sơ của thế kỷ 19!). Có rất nhiều điều mà khoa học Tây phương đã tìm ra để chứng minh rằng đạo học Đông phương là một khoa học, một khoa học cấp cao của các tầng siêu vật lý: phương pháp Kirlian chụp ảnh được hào quang của người, sự đọc được tư tưởng của người khác (mà đạo Phật gọi là tha tâm thông), sự đọc sách bằng da, thấy không phải chỉ bằng mắt (kinh Lăng Nghiêm gọi là các giác quan dùng thay lẫn nhau), 7 trung tâm lực nơi thân thể con người, sự khảo sát các sóng phát ra khi thiền định… Tất cả các khám phá của Trường sinh học đều dựa vào sự làm trống rỗng tâm thức, nghĩa là đưa tâm thức bước vào trạng thái nhập định. Dù cho tất cả những cái đó chỉ là những nhánh lá bên ngoài của Phật học, nhưng cũng cho khoa học hiện đại biết rằng minh triết Đông phương không phải là cái gì vu vơ mê tín.

 

Đi xa hơn, ý niệm về chân không, cái vacuum vật lý sinh ra tất cả các hạt, cái chân không này là nền tảng thống nhất tất cả vật chất và các trường – điều ước mơ mà Einstein đã không làm được với thuyết tương đối mở rộng của mình – thì đã rất gần với cái Chân Không của Phật giáo Đại Thừa, Chân Không sinh ra các sắc và các sắc chính là Chân Không, như bài Bát Nhã Tâm Kinh mà Phật tử nào cũng tụng mỗi ngày. Cái quan điểm về một môi trường bao quanh chúng ta, dự trữ cả năng lượng và thông tin, một đại dương năng lượng, đã giúp khoa học dễ dàng hiểu về cái đại dương Như Lai Tạng, cái đại dương A-Lại-Da thức của Phật giáo Đại thừa. Hoặc trong công trình được giải Nobel của Gabor về lý thuyết Toàn đồ, đưa chúng ta gần gũi với giáo lý Hoa Nghiêm: “Một tức tất cả, tất cả tức Một. Một trong tất cả, tất cả trong Một.”

 

“Cái phương pháp luận chủ quan hướng nội của Đông phương đã gặp gỡ phương pháp luận khách quan hướng ngoại của Tây phương: nhiều phần tương đồng giữa triết Đông phương với những thành tựu sâu sắc nhất của vật lý học hiện đại” (Con người và Trường sinh học, trang 161).

 

Trong cuốn “Phycisists and Mystics: similarities in world view” của Lawrence Le Shan, ông đã nêu ra một thí nghiệm: trích ra 62 câu phát biểu của các nhà vật lý hiện đại và của các nhà thần bí tôn giáo rồi trộn lẫn với nhau, kết quả là các độc giả trí thức cũng không thể phân biệt được đâu là câu nói của Einstein, Max Plank, Niels Bohr… với các câu nói của Vivekananda, Saint Augustin, Krishnamurti…

 

Với trình độ kiến thức thông thường ngày nay, bất kỳ ai cũng có thể kể ra nhiều những sự tương đồng để chứng tỏ sự giao thoa giữa hai nền văn minh Đông Tây. Cũng vì thế mà trong “Tuyên ngôn Venise” của Unesco, do nhiều nhà bác học được giải Nobel ký tên, đã xác nhận rằng “khoa học đã tiến tới một biên giới, nơi đó sự gặp gỡ của khoa học và những truyền thống tâm linh là tất yếu và cần thiết.”

 

***

 

Vậy thì Đạo học Đông phương là một khoa học và đâu là sự khác biệt của Khoa học Đông phương và Khoa học Tây phương? Ở đây là sự khác biệt về cấp độ. Khoa học Tây phương khảo sát về tầng vật chất thứ 7, với những dụng cụ cũng làm bằng loại vật chất thô ấy, với cái năng tri là ý thức, tức là cái hiểu biết ở mức độ thấp nhất của con người. Còn Khoa học Đông phương, đối tượng khảo sát là các tầng vật chất cao hơn, vi tế hơn, với công cụ khảo sát là các trạng thái thiền định, các mức độ siêu thức của con người. Khoa học của Tây phương là vật lý học, khoa học của Đông phương ở tầng cao hơn là tâm thức học, tâm linh học, và do đó mà trường sinh học của Tây phương đã phần nào tiếp cận được với khoa học Đông phương.

 

Phòng thí nghiệm của khoa học Đông phương chính là thân tâm con người. Bây giờ không ai chối cãi được cơ thể và tâm thức con người là phức tạp, tinh vi nhất, một công cụ tối thắng so với bất kỳ một loài nào trong thế giới. Với 12 tỷ tế bào nơron của bộ não, công dụng hơn gấp tỷ lần các máy tính thế hệ mới, vậy mà ở trạng thái ý thức bình thường, ngay cả với những nhà bác học nổi tiếng dù có làm việc suốt đời cũng chỉ mới sử dụng khoảng hơn 1 triệu tế bào não, còn tuyệt đại bộ phận vẫn ngủ vùi với tất cả tiềm năng của nó.

Vậy mà như các nhà khoa học đã nhận thấy mới đây, trong trạng thái thiền định, các mạch của mọi tế bào thần kinh đều được nối lại, hai bán cầu não cùng hợp tác làm việc, nghĩa là toàn bộ não đều thức tỉnh làm việc trong một sự hài hòa hợp nhất cao độ. Trong trạng thái thức tỉnh soi sáng cao độ như vậy, hiểu biết của con người được nhân lên gấp tỷ lần, ai dám bảo là nó không thể khám phá được chính mình và vũ trụ.

 

Chẳng thế mà, khi ngồi dưới gốc cây Bồ đề, trong trạng thái thiền định cao nhất, khi tất cả các tế bào nơron được kết hợp lại và làm việc hết công suất, khi toàn bộ thân tâm hài hòa trong một trạng thái sung mãn nhất, đức Phật đã hiểu biết tất cả vũ trụ, thấu suốt cả ba thời, đạt đến Toàn Giác. Điều này dù bằng suy nghĩ của một trí óc bình thường, chúng ta cũng thấy là không có gì trái với lý trí, trái với khoa học hết cả.

 

***

 

Nhưng điều khiến tôi muốn viết thư cho giáo sư không phải là những điều chi tiết trên, những điều nhỏ nhặt mà giáo sư cũng thừa biết. Điều tôi muốn gửi đến giáo sư là sự chia sẻ về sự tôn trọng với minh triết Đông phương và sự dũng cảm của giáo sư, một nhà khoa học đã nhận ra và đầu tư hết mình cho bước đi cùng chiều hướng tiên tiến nhất của nhân loại, nhìn thấy sự giáp mặt tất yếu của hai nền văn minh Đông phương và Tây phương trong thế kỷ tới, mà những thập niên cuối cùng này của thế kỷ 20 là sự chuẩn bị. Trong khi những bộ óc lỗi lạc nhất Tây phương đã nói đến sự gặp gỡ tất yếu ấy từ giữa thế kỷ, thì chúng ta vẫn còn ngủ yên trên bề dày mấy ngàn năm văn hiến của mình.

 

Điều tôi suy nghĩ cùng giáo sư là “chúng ta đã tự đánh giá mình quá thấp”, chúng ta đã bỏ quên gia tài minh triết Đông phương và nền văn minh Đông phương của chúng ta khá lâu, trong khi mà những học giả Tây phương hiện đại lại nói rằng: (Question de / Albin Michel, số 77/1989):

“Một ngày nào đó của thiên niên kỷ thứ 3, người ta sẽ hỏi rằng đâu là sự khám phá quan trọng nhất của thế kỷ 20, khi ấy chắc chắn rằng câu trả lời không phải là sự khám phá ra năng lượng nguyên tử, cũng không phải sự khám phá ra các vũ trụ song đối, mà chính là sự khám phá về trạng thái siêu ý thức, nghĩa là sự khám phá ra Chân Ngã”.

 

Chúng ta đã bỏ quên Đông phương, cái chính thật là tâm hồn chúng ta quá lâu. Trong khi Tây phương đang nỗ lực nhanh chóng tìm hiểu về Đông phương để tìm ra nguồn Minh Triết giải quyết cho nền khoa học của họ, giải quyết cho những điểm bế tắc nơi nền văn minh của họ, một nền Minh Triết tổng hòa hướng dẫn để xã hội không lâm vào những khủng hoảng như chúng ta đang thấy ở Tây phương, thì chính chúng ta – những người Đông phương – chúng ta tự biết về mình quá ít, chúng ta đã quá mặc cảm về nền văn minh của mình. Vì thế nếu biết khám phá lại cái thật là chúng ta, phải can đảm đi trước Tây phương – một Tây phương mà như giáo sư nói là “nhiều thông tin mà ít kiến thức” – trên con đường trở về lại gia tài của chính chúng ta, thì Việt Nam không chỉ là con rồng về kinh tế trong thế kỷ tới, mà còn là một trung tâm của văn hóa văn minh nhân loại. Đó là mùa Xuân không chỉ nằm trong mơ ước mà nằm trong khả năng hiện thực của chúng ta. Cái mùa Xuân mà giáo sư nói đến nơi trang cuối chấm dứt cuốn Con người và Trường sinh học: “ Cái bối cảnh hội tụ Đông Tây vĩ đại đó, sự thống nhất của tâm lý, sinh lý, và vật lý đó, là mùa Xuân thế kỷ của những ngày tháng tiến tới năm 2000: Xuân giữa Con người và Vũ trụ”.

 

Và cũng trong niềm tin vào mùa Xuân đó mà tôi gửi đến giáo sư những lời tâm tình này, trong không khí mùa xuân năm 91, nhắc chúng ta nhớ đến 10 năm cuối cùng của thập kỷ 20, để xin được cùng chia sẻ với giáo sư cái nhìn về tương lai dân tộc. Đồng thời cũng xin chúc giáo sư và các bạn cộng sự được an lạc và sung mãn để hoàn thành công trình Về Nguồn ấy.

 

Cũng trong mùa xuân, xin gửi đến giáo sư bốn câu thơ Xuân của đức vua - thiền sư Trần Nhân Tông, một con người Việt Nam thế kỷ 13, người đã tổng hợp được ba luồng tư tưởng chủ đạo của thời mình sống, tam giáo đồng nguyên, người đã đạt đến Trí Huệ để thấu suốt được hai phạm trù bản thể và hiện tượng, Chân Không và vật chất, hay nói theo danh từ Phật giáo là Không và Sắc, để tựu thành cho mình và cho dân tộc một mùa Xuân rực rỡ của đời Trần:

 

“Niên thiếu chưa từng rõ Sắc – Không

Một Xuân tâm sự tại trăm bông

Khuôn mặt chúa Xuân nay khám phá

Giường gỗ nệm Thiền ngắm rụng hồng.”

 

Kính chào giáo sư.

Bài viết liên quan