HÀNH ĐỘNG ĐẠO ĐỨC VÀ GIÁC NGỘ - Nguyễn Thế Đăng

HÀNH ĐỘNG ĐẠO ĐỨC VÀ GIÁC NGỘ

Nguyễn Thế Đăng

-------o0o-------

Đạo đức là cơ sở căn bản giúp cho cá nhân cá nhân và xã hội ổn định và phát triển, nhưng đạo đức còn là mục tiêu của sự phát triển, bởi vì không có ai trong loài người, dù ở lãnh vực nào, tiến lên những tầng cao của cuộc đời làm người mà thiếu đạo đức.
HÀNH ĐỘNG ĐẠO ĐỨC VÀ GIÁC NGỘ - Nguyễn Thế Đăng

 

1/ Đạo đức tạo ra sự ổn định và phát triển của xã hội

Xã hội để ổn định và phát triển cần phải có đạo đức. Tất cả mọi cơ cấu thiết kế hợp thành xã hội, gia đình, giáo dục, hành chánh, pháp luật, hiến pháp, kinh tế... đều nhằm đến ổn định và phát triển, nghĩa là cần một nền tảng đạo đức. Không có nền tảng đạo đức, cá nhân và xã hội sẽ không bền vững, thậm chí hỗn loạn.

Nhưng đạo đức là gì? Đó là những đức tính tạo nên con người và xã hội.Cẩm nang Tư duy Đạo đức(The Thinker's Guide to Understanding the Foundations of Ethical Reasoning, tác giảRichard Pauland Linda Elder, 2013, Hoàng Nguyễn Đăng Sơn chuyển ngữ,2016, nxb TP.HCM) nói:

Để lý luận tốt qua một câu hỏi hay vấn đề đạo đức, ta phải nhận diện và áp dụng các khái niệm đạo đức có liên quan. Nhưng tìm những khái niệm ấy ở đâu? Chúng nằm sẵn trong mọi ngôn ngữ tự nhiên. Để nhận ra chúng, ta chỉ cần nhìn vào một hành động thiện, gồm: thúc đẩy sự tử tế, lòng cảm thông, sự thấu hiểu, tinh thần cởi mở, sự kiên nhẫn, khoan dung, tha thứ, nhân từ, nhân ái, ân cần, quan tâm, lễ phép, tôn trọng, rộng lượng, đồng cảm, công bằng, không thiên lệch, vô tư, chính trực và bình đẳng.

Việc làm gây hại gồm: thiếu quan tâm, vị kỷ, lấy cái tôi làm trung tâm, tàn bạo, bất công, tham lam, thống trị, ích kỷ, không tôn trọng, định kiến, hẹp hồi, đạo đức giả, không tử tế, không nhạy cảm, keo kiệt, hung ác, hiểm độc, thù ghét, ác ý, nhẫn tâm, phân biệt đối xử, độc tài, hai mặt, không chân thật, tàn nhẫn, vô cảm, xấu xa, độc ác, không khoan dung, không công bằng, nhỏ nhen, bất lương, xảo trá, lừa đảo, giả dối, cuồng tín, bạo lực, ác dâm, gian lận, dối trá”.

 

Qua đoạn trên, chúng ta thấy đạo đức là những hành động thiện và không đạo đức là những việc làm gây hại. Hai phạm trù trên, tốt thiện và xấu ác, hầu như được mọi người công nhận, dù ở đâu trên trái đất, dù mức độ kinh tế cao hay thấp, dù theo chế độ quân chủ hay dân chủ. Tiến bộ theo chiều hướng cái tốt thiện càng thêm nhiều, cái xấu ác càng bớt đi, đó là văn minh.

 

Tất cả mọi lãnh vực của xã hội đều lấy hai lãnh vực này làm thước đo giá trị, tốt xấu, thật giả, hành động tốt và hành động gây hại... Pháp luật phải căn cứ vào hai phạm trù đó để xử phạt. Ngay cả lãnh vực khoa học hay văn chương, hành động ăn trộm công trình khoa học của người khác, hoặc trộmvăn của người khác (đạo văn) đều bị lên án, thậm chí xử phạt.

 

Tất cả mọi cơ cấu, thiết chế tạo thành xã hội đều có mục đích tưởng thưởng cái tốt thiện và ngăn ngừa cái xấu ác. Như thế, đạo đức giúp cho xã hội ổn định và phát triển.

 

2/ Đạo đức là sự trang nghiêm và là động lực của bồ tát

Đạo đức là cơ sở căn bản giúp cho cá nhân cá nhân và xã hội ổn định và phát triển, nhưng đạo đức còn là mục tiêu của sự phát triển, bởi vì không có ai trong loài người, dù ở lãnh vực nào, tiến lên những tầng cao của cuộc đời làm người mà thiếu đạo đức.

 

Đến đây, chúng ta có thể và cần thiết đặt ra một câu hỏi: đạo đức có từ đâu? Có phải đó là kết quả của quá trình tiến hóa chọn lọc, theo Darwin? Có phải đạo đức là do giáo dục và xã hội tạo ra và trau dồi? Có phải đạo đức đã được một Thượng Đế của các tôn giáo độc thần cài đặt vào số phận con người một chương trình (lập trình) sẵn, theo dòng lịch sử của nhân loại và chờ một mệnh lệnh nào đó thì hiển lộ?

 

Ở đây sẽ tìm hiểu vấn đề này qua hệ thốngPhật tánh Như Lai tạng, mà theo truyền thống Ấn - Tạng và Trung Hoa là thời thuyết pháp thứ ba của Đức Phật.

Kinh Đại Bát Niết Bàn lập đi lập lại câu,Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh”. Có Phật tánh là có những tiềm năng để trở nên hoàn hảo như một vị Phật. Có Phật tánh là có những hạt giống, những phẩm tính tiềm ẩn để trở thành Phật.

 

Danh hiệu của các vị Phật thường nói lên những đức tính và những công hạnh thực hiện những đức tính ấy. đây chỉ ghi vài danh hiệu Phật trong phần Sám hối: Đại Cường Tinh Tấn Dõng Mãnh Phật, Đại Bi Quang Phật, Từ Lực Vương Phật, Thiện Ý Phật, Tinh Tấn Quân Phật, Công Đức Hoa Phật, Đấu Chiến Thắng Phật...

Trong Mật tông,cáchtrang phục, trang sức và các tư thế thân của các Đại Bồ tát biểu lộ cho thấy những đức tính và hạnh nguyện của vị ấy, như Quan Âm tứ thủ,Quan Âm thập nhất diện;Văn Thù, một tay với chồng Kinh Đại Bát Nhã, một tay cầm kiếm... Những trang sức, tư thế thân ấy tượng trưng cho các đức tính mà vị Bồ tát ấy đã thành tựu.

Một Đại Bồ tát có nhiều thân biến hiện, hóa thân. Như Kinh Lăng Nghiêm nói Bồ tát Quán Thế Âm nhờ Vô tác diệu lực đã thành tựu ba mươi hai hóa thân và mười bốn công đức vô úy. Hóa thân và Báo thân là Sắc thân, thân vật chất thô hoặc vi tế, hoạt động trong ba cõi. Hóa thân hay Sắc thân được thành tựu là nhờ những hoạt động tạo công đức trong ba cõi vật chất thô và tế, và những hoạt động này có động cơ là những đức tính đã manh nha nơi con người bình thường. Nói cách khác,chính nhờ thân thể và tâm thức của con người với những đức tính, nguyện, hạnh mà người ta có thể tích tập công đức trong ba cõi để khi giác ngộ có được hóa thân cứu độ trong ba cõi.

 

Cuộc sống thế gian là môi trường để gieo hạt, trưởng dưỡng cho những hạt giống Phật, những phẩm tính, đức tính Phật. Hoạt động lợi mình – lợi người này là Bồ tát hạnh, biến cuộc đời bình thường thành nơi chốn thanh tịnh thiêng liêng, bởi vì vận hành không bằng lợi ích kinh tế, xã hội, mà bằng những đức tính có sẳn nơi mỗi con người.

 

Một vị Bồ tát không bỏ đi những đức tính còn chưa phát triển nơi con người. Trái lại làm cho chúng phát triển mạnh mẽ thêm bằng cách cởi trói cho chúng thoát khỏi cái tôi và cái của tôi để thăng hoa thành những đức tính trang nghiêm cho một bậc giác ngộ. Những đức tính ấy không chỉ là trang nghiêm cho thân tâm của vị ấy mà còn là động cơ và phương tiện để giúp đỡ, cứu thoát chúng sanh.

 

Bài viết liên quan