LÒNG CAN ĐẢM - DAVID R. HAWKINS - CHUYỂN HOÁ CÁC CẤP ĐỘ Ý THỨC: BẬC THANG DẪN TỚI GIÁC NGỘ

LÒNG CAN ĐẢM

DAVID R. HAWKINS - CHUYỂN HOÁ CÁC CẤP ĐỘ Ý THỨC: BẬC THANG DẪN TỚI GIÁC NGỘ

-------o0o-------

Ở cấp độ Can đảm, năng lượng tâm linh làm thay đổi sâu sắc trải nghiệm của bản thân và những người khác; do đó, nó là cấp độ bắt đầu của sự trao quyền. Đây là vùng của sự khám phá, đạt thành tựu, ngoan cường và quyết tâm.
LÒNG CAN ĐẢM - DAVID R. HAWKINS - CHUYỂN HOÁ CÁC CẤP ĐỘ Ý THỨC: BẬC THANG DẪN TỚI GIÁC NGỘ

LÒNG CAN ĐẢM

DAVID R. HAWKINS - CHUYỂN HOÁ CÁC CẤP ĐỘ Ý THỨC: BẬC THANG DẪN TỚI GIÁC NGỘ

-------o0o-------

Giới thiệu

Sir. David R. Hawkins, MD., Phd (1927–2012). Ông là Tiến sĩ, bác sĩ tâm thần, nhà nghiên cứu nhận thức và vị thầy tâm linh nổi tiếng người Mỹ. Một người có uy tín, được biết đến rộng rãi trong lĩnh vực nghiên cứu ý thức và tâm linh, đã viết và giảng dạy từ quan điểm độc đáo của một nhà lâm sàng, nhà khoa học và nhà thần bí có kinh nghiệm. Ông được vinh danh một cách chi tiết trong danh sách “Who’s Who in America (Ai là ai ở Mỹ)” and “Who’s Who in the World ( Ai là ai trên thế giới)”. Các tác phẩm của ông đã được nhiều nhà lãnh đạo thế giới và những người đoạt giải Nobel, bao gồm cả Mẹ Teresa, ca ngợi. Năm 1995, ông được được nhận huân chương hiệp sĩ y viện Binh đoàn Tối cao của Thánh John thành Jerusalem. Ông cũng được nhiều tổ chức và cá nhân toàn thế giới thừa nhận như "Bậc thầy hàng đầu của sự khai sáng" và một vị Bồ tát.

Cuộc đời của ông hoàn toàn dành cho sự tiến hoá của nhân loại. Ông làm việc không mệt mỏi. Ngay cả ở tuổi tám mươi, Tiến sĩ Hawkins duy trì một lịch trình dày đặc của các bài giảng, các cuộc phỏng vấn trên đài phát thanh và các dự án sách. Ông thuyết trình rộng rãi tại các trường đại học và học viện, và cho các hội nhóm tâm linh, các tu viện Công giáo, Tin lành và Phật giáo. Tương tự như những vị thầy tâm linh cao cấp khác (Mẹ Teresa, Ramana Maharshi), rất nhiều người đến từ khắp nơi trên thế giới để gặp ông, nói rằng "hào quang" hoặc "ánh hào quang" của ông có tác dụng biến đổi thông qua "sự truyền âm thầm."

-------o0o-------

Ở cấp độ Can đảm, năng lượng tâm linh làm thay đổi sâu sắc trải nghiệm của bản thân và những người khác; do đó, nó là cấp độ bắt đầu của sự trao quyền. Đây là vùng của sự khám phá, đạt thành tựu, ngoan cường và quyết tâm. Ở cấp độ thấp hơn, thế giới được coi là vô vọng, buồn bã, đáng sợ, cám dỗ hoặc chán nản, nhưng ở cấp độ Can đảm, cuộc sống được xem là thú vị, đầy thử thách và kích thích.

Lòng Can đảm ngụ ý về sự sẵn sàng thử những điều mới và đối phó với những thăng trầm của cuộc sống. Ở cấp độ trao quyền này, người ta có thể đương đầu và xử lý hiệu quả các cơ hội của cuộc sống. Ví dụ: ở cấp độ 200, con người có năng lượng để học các kỹ năng công việc mới, và sự phát triển và giáo dục trở thành những mục tiêu có thể đạt được. Con người có khả năng đối mặt với nỗi sợ hãi hoặc khiếm khuyết trong tính cách và phát triển bất chấp những trở ngại này, và sự lo lắng không làm lụn bại những nỗ lực như ở các giai đoạn tiến hóa thấp hơn. Những chướng ngại đánh bại những người có cấp độ ý thức dưới 200 lại đóng vai trò như là chất kích thích đối với những người đã tiến hóa lên cấp độ đầu tiên của sức mạnh thực sự.

Những người ở cấp độ này đưa trở lại thế giới nhiều năng lượng như họ lấy từ nó. Ở cấp độ thấp hơn, các quần thể cũng như các cá thể tiêu hao năng lượng từ các cá nhân khác và của xã hội mà không hề trả lại. Vì thành tựu đạt được sẽ mang lại phản hồi tích cực, nên sự tự thưởng và lòng tự trọng sẽ dần được củng cố. Năng suất bắt đầu từ đây.

Vượt qua cấp độ 200 là bước quan trọng nhất trong sự phát triển của ý thức con người và chất lượng đồng nhất của đời sống bên trong và bên ngoài. Sự phát triển khả năng trở nên phù hợp với sự thật được công nhận hơn là lợi ích cá nhân phân tách một cách rõ ràng giữa sự thật và giả dối. Lựa chọn mang tính quyết định để thực hiện bước này là sự chấp nhận trách nhiệm và chịu trách nhiệm cho quyết định hoặc hành động của mình. Điều này cũng cho thấy sự thay đổi từ việc bị chi phối bởi những cảm xúc sơ khai, vốn trở nên suy yếu bởi trí thông minh và giá trị có thể kiểm chứng hơn là cảm xúc phục vụ bản thân dẫn đến lý luận ngụy biện và méo mó. Do đó, lòng can đảm thể hiện việc chinh phục nỗi sợ mất mát cũng như sự thay thế bằng những phần thưởng về sự thật mang tính lâu dài hơn.

Ở cấp độ 200, có sự chấp nhận trực quan về sự thật của trách nhiệm như một thực tại mang tính xã hội và tâm linh. Điều này đi kèm với sự xuất hiện của nhận thức về trách nhiệm đối với vận mệnh của tâm hồn một con người chứ không chỉ đối với thể xác và những thỏa mãn của bản ngã. Sự thật giờ đây được coi là đồng minh thay vì kẻ thù. Trở nên phù hợp với sự thật hơn là lợi ích sẽ mang lại sức mạnh, lòng tự tôn và sự trao quyền thực sự hơn là sự thổi phồng bản ngã. Câu châm ngôn, " Một người giành được cái gì khi chiến thắng cả thế giới nhưng lại đánh mất đi linh hồn của chính mình?" bây giờ trở thành tiên đề định hướng cho các quyết định và lựa chọn.

Lòng can đảm mang lại sự tự tin bên trong và cảm giác về sức mạnh cá nhân lớn hơn vì nó không phụ thuộc vào các nhân tố hoặc kết quả bên ngoài. Lựa chọn sự chính trực và chân thật là sự tự thưởng và củng cố bản thân. Có một cảm giác tự do bên lớn trong hơn nhờ sự giảm nhẹ khỏi cảm giác tội lỗi và sợ hãi đi kèm một cách tinh vi với mọi sự sai trái, vì ở mức độ vô thức, tinh thần (spirit) biết khi nào bản ngã đang nói dối và làm trái với các tiền đề vận hành nhận thức. Điều này xuất phát từ một nguyên mẫu trong vô thức tập thể, được mô tả bởi nhà phân tâm học người Thụy Sĩ Carl Jung (cal. 520). Sự tích tụ của món nợ tinh thần vô thức (nghiệp) dần dần kéo cấp độ ý thức đã định chuẩn của những người làm trái sự thật xuống thấp. Sau đó, họ phải đền bù bằng sự tự phụ đầy tính phòng thủ, sự tức giận, cảm giác tội lỗi, sự xấu hổ và nỗi sợ hãi về Sự Phán xét sau cùng của Thần linh.

Tính ổn định và hiệu quả tích hợp dẫn đến sự hài lòng bên trong tích lũy từ việc đáp ứng thỏa đáng các tiêu chuẩn bên trong. Ở cấp độ này, điều quan trọng là nỗ lực và ý định, chứ không chỉ kết quả. “Làm những gì mà bạn cho là đúng” dần dần chi phối các lựa chọn, quyết định và sự xuất hiện của cảm giác tôn vinh bên trong. Mục tiêu dài hạn của cuộc sống trở thành phát triển các tiềm năng bên trong, chẳng hạn như sức mạnh, thay vì giành lấy những thứ bên ngoài.

Mặc dù lòng dũng cảm được cả xã hội công nhận và tán thưởng, nhưng sự tán thành của xã hội chỉ trở thành thứ yếu, vì những người chính trực biết rằng có thể đánh lừa thế giới chứ không thể đánh lừa chính mình. Do nhận thức tốt hơn xảy ra ở cấp độ 200, những cám dỗ làm trái với tính chính trực để đạt được lợi ích sẽ được nhận diện và bác bỏ, trong khi ở dưới cấp độ 200, chúng được hợp lý hóa để thu lợi nhanh chóng mà không quan tâm đến hậu quả.

Từ nghiên cứu định chuẩn ý thức, người ta đã xác nhận rằng mọi người đều vô thức biết khi nào họ đang bị lừa dối, điều này nhanh chóng được tiết lộ bằng bài kiểm tra cơ bắp để ngay lập tức phân biệt thật giả. Sự suy yếu của phản ứng cơ bắp của cơ thể và sự thay đổi của dòng năng lượng qua hệ thống huyệt đạo cho thấy rằng nhận thức về sự khác biệt giữa sự thật và sự giả dối là nội tại của năng lượng sống và được phản ánh qua phản ứng của cơ thể, ngay cả khi tâm thức phủ nhận điều đó.

Năng lượng của ý thức ở cấp độ 200 phù hợp với tính chính trực của lý do, và do đó, những lời ngụy biện bị bóp méo, bị bác bỏ do chúng yếu đuối và sai lầm. Với bước tiến hóa tiến bộ này, cảm xúc và mộng tưởng đã giảm đi đáng kể. Do đó, cuộc sống trở nên ít kịch tính hơn, và sự trả giá nhất thời của các vị trí bản ngã tiêu cực mất đi sức hấp dẫn của chúng bởi vì giờ đây không còn phần thưởng cho chúng. Đổi lại, có một sự thanh thản hơn và cảm giác an toàn nói chung chỉ có thể có được bằng cách giữ vững sự trung thực bên trong. Bằng cách thử và sai, người ta phát hiện ra rằng cái giá phải trả của sự thỏa hiệp không đáng để rủi ro đối với sự tự tin mà tính chính trực đã trở nên quen thuộc.

Những biểu đạt mang tính xã hội

Sự quan tâm đến người khác và năng lực thực hiện trách nhiệm xã hội phát sinh trên cấp độ 200. Bảy mươi tám phần trăm dân số thế giới ở dưới cấp độ ý thức 200 (ở Mỹ là bốn mươi chín phần trăm), giải thích tại sao thế giới là như vậy, với vô số xung đột, chiến tranh, nghèo đói, tội phạm, v.v ... Nghiên cứu chỉ ra rằng nguồn gốc của những vấn đề này là nội sinh chứ không phải ngoại sinh.

Sự trung thực của bản thân giúp giảm bớt những cảm xúc tiêu cực của các trường năng lượng thấp hơn. Sự lo lắng, sợ hãi, bất an và cảm giác tội lỗi cũng như sự thất vọng, phẫn uất và tức giận giảm dần. Cảm xúc tiêu cực giờ đây không được hoan nghênh và khó ưa đối với cả bản thân và những người khác. Tranh luận, xung đột và bất hòa không còn hấp dẫn vì chúng đã mất đi sự thổi phồng bản ngã. Những khó khăn nhất thời của thực tế xã hội là những khía cạnh được chấp nhận trong cuộc sống con người hơn là bị coi là sự xúc phạm cá nhân. Ngày càng có nhiều chán ghét đối với bạo lực và chủ nghĩa cực đoan màu mè về chính trị và tư tưởng, vì sự thoải mái của sự cân bằng nội môi bình an bên trong được ưa thích hơn sự phấn khích của adrenaline.

Cùng với sự trưởng thành là sự phát triển của khiếu hài hước thay thế cho các công kích và bộc phát có tính thù địch. Sự bình yên và tĩnh lặng vốn dường như nhàm chán đối với các cấp độ ý thức thấp hơn thì giờ đây lại được ưa thích hơn vì đây là khoảng thời gian tĩnh lặng để suy nghĩ và chiêm nghiệm. Sự phản tư lúc này trở nên quan trọng hơn phản ứng theo cảm xúc. Khát khao trở nên ít đòi hỏi hơn, và phẩm chất của tính kiên nhẫn thay thế cho động cơ của sự thỏa mãn và tính không khoan dung cho bất kỳ chậm trễ nào để đạt được thoả mãn. Ở cấp độ 200, cuộc sống trở nên có cân nhắc hơn và giảm đi tính bốc đồng. Hạnh phúc cá nhân trở thành mục tiêu có thể đạt được, và lòng biết ơn thay thế cho sự oán giận, tự thương hại và đổ lỗi cho người khác. Trải nghiệm chủ quan về thế giới thay đổi theo chiều hướng tốt hơn, và mọi người dường như thân thiện và hiếu khách hơn. Sức mê hoặc của sự đặc biệt mất dần đi tính hấp dẫn, và sự thái quá được thay thế bằng tính cân bằng. Lòng dũng cảm dẫn đến sự khám phá và phát triển bản thân, đồng thời nó tạo điều kiện cho sự trưởng thành cá nhân và tiến hoá của ý thức.

Chìa khóa quan trọng để đạt tới sức mạnh của lòng dũng cảm là chấp nhận trách nhiệm cá nhân và trách nhiệm đối với các quyết định của mình. Động thái quan trọng này đòi hỏi phải từ bỏ sự ngụy biện mang tính nhị nguyên - nạn nhân/ thủ phạm làm suy yếu tính chính trực thông qua đổ lỗi và bào chữa dựa trên các ngụy biện và lý thuyết nhị nguyên, đạo đức và xã hội mà theo đó 'nguyên nhân' bên ngoài hoặc điều kiện xã hội thay thế quyền tự chủ cá nhân và sự tự trung thực mang tính toàn vẹn. Do đó, lòng dũng cảm cũng bao gồm việc vượt lên trên sự đồng hoá được hợp lý hóa bởi các hệ thống niềm tin xã hội hiệu chuẩn dưới 200 và dựa trên các giả định về đổ lỗi và bào chữa. Ngay cả khi có hoặc đã có một "nguyên nhân" bên ngoài, thì cá nhân đó vẫn có thể vượt lên trên nó. Xã hội có đầy rẫy những ví dụ được công bố rộng rãi về việc kêu gọi lòng can đảm như vậy, ngay cả khi đối mặt với những thảm họa nghiêm trọng (ví dụ, Mccain, 2005). Kinh nghiệm chỉ ra rằng thử thách phổ biến nhất đối với lòng can đảm là sự sợ hãi, cộng với sự nghi ngờ bản thân và nỗi sợ thất bại. Lòng can đảm không có nghĩa là không sợ hãi mà là sự sẵn sàng vượt qua nó, điều mà khi đạt được sẽ bộc lộ sức mạnh tiềm ẩn và khả năng chịu đựng. Nỗi sợ thất bại giảm đi khi nhận ra rằng người ta phải chịu trách nhiệm cho ý định và nỗ lực chứ không phải kết quả, điều này phụ thuộc vào nhiều điều kiện và yếu tố khác không mang tính cá nhân.

Ý định mạnh mẽ cộng với sự cống hiến được hỗ trợ bởi nguồn cảm hứng có thể mang lại thành công một cách đáng ngạc nhiên bất chấp những thất bại trước đó. Điều này cho thấy khả năng dũng cảm và bản lĩnh bên trong làm gia tăng đáng kể lòng tự trọng và sự tự tin. Chỉ có thể vượt qua nhiều chặng đường của cuộc đời bằng cách ‘vượt qua sợ hãi’, điều này giúp xây dựng sự tự tin cho bản thân.

Những Động lực của Bản ngã

Cấp độ 200 có xu hướng tự củng cố nhờ vào sự cân bằng nội tâm, vốn phù hợp với tính chính trực và sự thật, và vận hành thành công. Mệnh lệnh bên trong của nó là "đi đúng hướng" và, giống như một con tàu, đưa bản thân ra khỏi những tác động tạm thời của những con sóng cuộc đời. Những cảm xúc thấp kém vẫn bùng phát theo chu kỳ và cần được điều chỉnh, nhưng chúng giờ đây không được chào đón hơn là được tìm kiếm hoặc coi trọng.

Cấp độ ý thức được định chuẩn là hệ quả của sự điều chỉnh cho phù hợp với các nguyên tắc tâm linh. Nó định hướng vận mệnh của một người và tương tự như việc thiết lập la bàn của con tàu. Bằng sự điều chỉnh cho phù hợp với tính chính trực, những khiếm khuyết về tính cách được sự chấp nhận, vốn được coi là thách thức để tự hoàn thiện hơn là lý do để đổ lỗi, tự thương hại hoặc oán giận. Ở cấp độ 200, các mục tiêu được định hướng theo giá trị và việc đạt được chúng vừa thực tế vừa khả thi.

Chức năng của bản ngã tâm lý, như được phân tâm học nhìn nhận, là điều chỉnh nhân cách cho hài hoà với thực tại xã hội của thế giới bên ngoài và đồng thời cân bằng thành phần nhân cách của lương tâm (siêu bản ngã của Freud) với 'lý tưởng bản ngã' (các tiêu chuẩn nội tại hóa) chống lại các động lực bản năng động vật nguyên thủy ('Id'). Sự thiếu thành công trong chức năng cần thiết này sẽ dẫn đến các tình trạng và biểu hiện bệnh lý, chẳng hạn như sự phóng chiếu của việc phản đối bên trong, nỗi sợ hãi hoặc bản năng sơ khai lên người khác ở thế giới bên ngoài (ví dụ: đổ lỗi hoặc hoang tưởng). Không kiểm soát được bản năng sẽ dẫn đến bộc phát những cơn thịnh nộ bị kìm nén, cũng như nỗi sợ hãi và trầm cảm. Một siêu bản ngã thái quá hoặc tàn bạo cũng có thể được phóng chiếu lên người khác và dẫn đến những đặc điểm tính cách cứng nhắc, lòng căm thù bản thân và cảm giác tội lỗi tự trừng phạt. Việc biết đến những cơ chế này rất quan trọng và đã được Anna Freud mô tả rõ nhất trong Bản ngã và Các Cơ chế Phòng vệ (1971).

Phản tư thành công đòi hỏi sự đánh giá chân thực về những hạn chế trong sự phát triển của con người và khả năng chịu đựng đối với tính mơ hồ và cả sự bình thường của việc kém hoàn hảo. Bằng sự gia tăng nội tâm của sức mạnh tinh thần, việc đáp ứng những cấp độ bản ngã thấp hơn bị loại bỏ vì cảm giác vui thích vốn sẵn có đối với sự thay thế cho chúng bằng trung thực và chính trực. Chính tính bình đẳng được tìm thấy cũng đem lại cảm giác vừa hài lòng vừa vui thích, cũng như tăng cường sự tự tin cho bản thân.

Từ cấp độ 200 trở lên, có khả năng có mối quan hệ xã hội mang tính trách nhiệm. Trong khi các cấp độ cảm xúc thấp hơn tạo nên những rắc rối với người khác, thì ở cấp 200, sự chú tâm giờ đây chuyển sang xu hướng hòa hợp với những người khác và dựa trên nguyên tắc tương hỗ lẫn nhau thay vì coi mình là trung tâm.

Khi không có sự can thiệp của những bóp méo lệch lạc của tính vị kỷ, khả năng kiểm định thực tại sẽ thay thế cho những tri giác ảo tưởng và giả tạo. Khi không có sự can thiệp thường xuyên của bất hòa, thì hài hòa xuất hiện như một nguyên tắc vận hành giúp cho việc hòa hợp với những người khác và điều phối các hành động trở nên có thể. Hệ quả là sự đồng tình và chấp nhận của xã hội ngày càng gia tăng. Mỗi lần lại củng cố các mục tiêu và động lực. Sự lo lắng và không chắc chắn được chấp nhận là bình thường và diễn ra đồng thời cùng với sự phát triển (công việc mới, mối quan hệ mới, v.v…).

Khi trở nên phù hợp với sự thật ở mức 200, năng lực phân biệt thật giả được cải thiện và trí tuệ có tiến bộ rõ rệt, phát triển khả năng phát hiện những lời xảo biện đầy cảm tính che giấu đi sự thật. Do đó, hình thành khả năng phát hiện sự giả tạo và những ảo tưởng, ở đó trí tưởng tượng và mơ mộng thay thế cho lý luận và cân bằng. Bởi vì dưới cấp độ 200, sự thật đã bị bán đi để kiếm lợi, không có khả năng phân biệt thật giả, và những lời ngụy biện được chấp nhận một cách thiếu tính phản biện như là đầy tính thuyết phục. Vì vậy, dưới cấp độ 200 việc kiểm định thực tại cũng như khả năng trí tuệ bị thiếu hụt đáng kể. (Những người dưới mức định chuẩn 200 không thể sử dụng bài kiểm tra cơ để xác định sự thật và nhận được những kết quả sai.)

Mặc dù dưới cấp độ 200 vẫn có khả năng xử lý "sự kiện" (tuyến tính), nhưng vẫn chưa có khả năng phân biệt sự thật, vốn là phi tuyến tính và phụ thuộc vào khả năng suy nghĩ trừu tượng. Tâm thức Thấp hơn sử dụng các dữ kiện để hỗ trợ việc định vị, trong khi Tâm thức Cao hơn tôn trọng sự cân bằng, ý nghĩa và sự phù hợp của các cấp độ trừu tượng. Do đó, ý nghĩa dần dần trở nên phù hợp với các cấp độ của sự thật như là hệ quả của các quy tắc lý luận và lý trí được tuân thủ chứ không phải là tư duy mơ mộng.

Ở dưới cấp độ 200, các sự kiện được thu thập mà không tôn trọng các phạm trù có giá trị ngang nhau và bằng chứng trái ngược bị lờ đi hoặc hợp lý hoá để bỏ qua. Vì vậy, Tâm thức cao hơn sẽ tuân theo sự kỷ luật, các quy luật của phép biện chứng và các yêu cầu của tính chính trực thông tuệ.

Do đó, việc phân biệt thật giả phụ thuộc vào việc nhận ra bối cảnh, nội dung, vốn ảnh hưởng sâu sắc đến và phân loại được ý nghĩa và tầm quan trọng. Trong khi các sự kiện, khi được thu thập một cách logic, có thể được coi là "bằng chứng", thì sự thật lại thuộc một cấp độ trừu tượng khác và chỉ có thể được chứng minh bằng các phương tiện xác nhận khác. Ngay cả trong trạng thái tốt nhất, Tâm thức con người, tự bản chất không thể phân biệt được ‘sự kiện’ với sự thật và sự thật với sự giả dối. Việc phân biệt thật giả được hỗ trợ bởi tính khiêm tốn và tinh thần chân thật và cân bằng. Một ví dụ kinh điển là anh em nhà Wright đã bị chế giễu bởi ‘sự kiện’ rằng máy bay nặng hơn không khí và do đó không thể bay. Những sự kiện được lựa chọn có thể dẫn đến những kết luận rất sai lầm bởi bị biện minh bằng lập luận của chủ nghĩa hoài nghi.

Vượt qua Cấp độ 200

Cái thấy của Thượng đế ở cấp độ 200 là sự tự tin, công bằng, sự cân bằng với quyền lực và tạo ra các cơ chế để bù đắp cho sự thiếu hoàn hảo thông qua sự cứu rỗi, để chấp nhận trách nhiệm về những khiếm khuyết và đấu tranh cho đạo đức. Cái thấy Linh Thánh lành mạnh hơn này thay thế những hình ảnh phóng tưởng của nhân loại ở cấp độ thấp hơn về Thượng Đế vốn dễ thiên lệch về phía những điểm yếu của con người như kiêu ngạo, khắc nghiệt, phán xét, báo thù, giận dữ, chia rẽ và ghen tị do những thiên vị về sắc tộc và địa lý.

Ở cấp độ 200, tôn giáo được coi trọng và được xem là một lựa chọn hơn là một mối đe dọa. Các nguyên tắc chính là tránh xa tội lỗi, chấp nhận trách nhiệm tinh thần và từ chối sự cám dỗ (ví dụ: như trong Kinh Lạy Cha). Cầu nguyện, vừa được coi là sự tôn thờ vừa là sự chứng thực ý muốn của Thượng đế và để cầu xin sự chỉ dẫn, trở nên tự nhiên do hệ quả xuất phát từ tính khiêm tốn và chấp nhận những khiếm khuyết trong tính cách. Do đó, đạo đức có xu hướng trở thành trọng tâm chính và thường được phản ánh trong các thái độ trách nhiệm mang tính xã hội và tôn trọng các giá trị truyền thống. Mặc dù vẫn còn nỗi sợ đối với Sự phán xét của Thần linh, nhưng nó đã được cải thiện bởi niềm tin vào sự công bằng, lòng thương xót và tha thứ của Thượng đế để đáp lại sự ăn năn và lời hứa cứu rỗi.

Việc cam kết giữ gìn tính thanh tịnh và chính trực giúp nhận thức rõ những khiếm khuyết trong tính cách, từ đó hình thành tính khiêm tốn và sự nhìn nhận rằng nếu không có sự giúp đỡ của Thượng đế, bản ngã và những giới hạn của nó rất khó hoặc đôi khi, dường như không thể vượt qua những thiếu sót này. Nỗi sợ tội lỗi, mặc dù không quá lớn, vẫn là một vấn đề cần được xem xét nghiêm túc. Điều này dẫn đến việc tin theo vào tôn giáo và sự tôn sùng lúc này được coi là phải lẽ và là nguồn an ủi. Tôn trọng quyền lực dẫn đến việc chấp nhận và tuân thủ các khái niệm tôn giáo/ tâm linh, cùng với hiểu biết về sự cần thiết phải có đức tin.

Can đảm là kết quả của một hành động theo ý chí, trong đó quyết định được đưa ra để chấp nhận sự trung thực và chính trực ở bên trong như những nguyên tắc hiển nhiên của đời sống cần phải tuân theo bất chấp mọi phản kháng, cám dỗ và trở ngại. Bổn phận đối với bản thân và những người khác dẫn đến sự phù hợp với các nguyên tắc tâm linh và lòng can đảm để vượt qua những trở ngại và kháng cự đó. Bằng ý muốn và sự thực hành thành công, những thăng trầm của cuộc sống, cả bên trong lẫn bên ngoài, trở thành cơ hội để gia tăng sức mạnh. Đây là nền tảng cho sự tin tưởng vào chính mình, vào Thượng đế, vào sự thật tâm linh và vào chính đời sống, được thiết lập như một nền tảng vững chắc như đá.

-------o0o-------

Trích từ: “Chuyển hoá các Cấp độ Ý thức: Bậc thang dẫn tới Giác ngộ”

Tác giả: Bác sĩ Tiến sĩ David R. Hawkins

Bảo Hạnh dịch Việt, @2022.

Ảnh : Tranh “Field of Gold - Cánh đồng Vàng” của Hoạ sĩ Naomi Walker

Bài viết liên quan