MÙA XUÂN CỦA ĐIỀU NGỰ GIÁC HOÀNG TRẦN NHÂN TÔNG - Nguyễn Thế Đăng

 

MÙA XUÂN CỦA ĐIỀU NGỰ GIÁC HOÀNG TRẦN NHÂN TÔNG

Nguyễn Thế Đăng

-------o0o-------

 

Thật tướng kim cương và lòng mầu viên giác, chính là “khuôn mặt chúa Xuân”, cũng là khuôn mặt xưa nay của mỗi người. Vì “tất cả chúng sanh đều có Phật tánh” (Kinh Đại Bát Niết Bàn).
MÙA XUÂN CỦA ĐIỀU NGỰ GIÁC HOÀNG TRẦN NHÂN TÔNG - Nguyễn Thế Đăng

Vua Trần Nhân Tông có kể sơ lược ngài đã thấy thực tại tánh Không và sống với nó như thế nào, trong bài thơ Xuân Vãn:

Niên thiếu chưa từng hiểu sắc -  Không

Một xuân tâm ở tại trăm hoa

Khuôn mặt chúa Xuân nay khám phá

Đệm cỏ giường thiền ngắm rụng hồng.

(Niên thiếu hà tằng liễu sắc không

Nhất xuân tâm tại bách hoa trung

Như kim khám phá đông hoàng diện

Thiền bản bồ đoàn khán trụng hồng.)

 

Khuôn mặt chúa Xuân (đông hoàng diện) là thực tại mà Thiền thường gọi là “khuôn mặt xưa nay” (bổn lai diện mục) của mỗi người mà nếu không nhận biết người ta sẽ lạc mất trong vô vàn sắc tướng của sanh tử.

 

Ở đây sẽ trích ra từ Cư trần lạc đạo phú để Văn, Tư, Tu theo ngài.

 

Trước hết mở đầu bài phú, ngài nói,

Mình ngồi thành thị,

Nết dụng sơn lâm

Nghĩa là, dầu ở chốn thành thị, người ta vẫn có thể nhìn thấy, nhận biết thực tại ấy. Như thầy của ngài là Tuệ Trung thượng sĩ.

 

Thực tại ấy là tánh Không:

Hỏi phép chân không

Hề chi lánh ngại thanh chấp sắc.

Biết chân như, tin bát nhã

Chớ còn tìm Phật Tổ tây đông.

(Hội thứ Tư)

 

Xem phỏng lòng kinh,

Lời Bụt thốt dễ cho thấy dấu.

Học đòi cơ Tổ

Sá thiền Không khôn chút biết nay (nơi).

(Hội thứ Bảy)

Lòng kinh là Tâm Kinh (Bát nhã) dạy về tánh Không. Sá (đường) thiền Không là con đường thiền là con đường Khai, Thị, Ngộ, Nhập tánh Không.

 

Tượng chúng ấy,

cốc (biết) một Chân Không,

Dùng đòi căn khí,

nhân lòng ta vướng chấp khôn thông.

(Hội thứ Mười)

 

Tánh Không không phải là không có gì hết, tánh Không không thể tách rời tánh sáng. Ngài Điều Ngự nhắc nhiều lần đến tánh sáng:

Sách dễ xem chơi

Yêu tánh sáng hơn yêu châu báu.

(Hội thứ Nhất)

Gìn tánh sáng, tánh mới hầu an…

Di Đà là tánh sáng soi…

(Hội thứ Hai)

Nếu mà cốc (biết),

Tội ắt đà Không,

Phép học lại thông.

Gìn tánh sáng,

Mựa lạc tà đạo.

(Hội thứ Ba)

 

Thực tại ấy là “một lòng” (nhất tâm):

Tin xem!

Miễn cốc (biết) một lòng

Thì rồi mọi hoặc.

Chuyển tam độc mới chứng tam thân,

Đoạn lục căn nên trừ lục tặc.

(Hội thứ Tư)

Thật thế!

Hãy sá vô tâm, tự nhiên hợp đạo

Dừng tam nghiệp mới lặng thân tâm

Đạt một lòng thì thông Tổ giáo.

(Hội thứ Sáu)

Một lòng ấy là “lòng vốn” (bản tâm):

Nhận biết làu làu lòng vốn

Chẳng ngại bề thời tiết nhân duyên

(Hội thứ Sáu)

“Lòng vốn” là cái tâm thanh tịnh ấy vốn ở nơi mỗi chúng ta, dù chúng ta có lạc lỏng bao đời trong sanh tử.

Tánh Không - tánh sáng, một lòng, lòng vốn… và có vài từ ngữ khác nữa, là những từ ngữ thường thấy trong kinh. Những từ ngữ ấy để chỉ pháp thân, mà pháp thân thì chung cho tất cả chư Phật. Các kinh thường nói, “Pháp thân của tất cả chư Phật”.

Ngài cũng nói đến pháp thân, như thực tại tối hậu, và pháp thân ấy thì đầy khắp (phổ mãn), rõ ràng sáng ngời trước mắt (hiển hách mục tiền, viên dung lõa lõa):

Địa thủy hỏa phong

Dầu là biến hóa.

Pháp thân thường trụ

Phổ mãn thái hư

Hiển hách mục tiền

Viên dung lõa lõa.

Thiền tông chỉ thị

Mục kích đạo tồn…

(Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca)

Pháp thân này, tánh Không - tánh sáng này, một lòng, lòng vốn này, thì thường trụ rỡ ràng sáng ngời ngay trước mắt. Sự chỉ thị của Thiền tông là cái thấy (mục kích) thực tại ngay trước mắt (mục tiền).

Pháp thân, tánh Không - tánh sáng, một lòng, lòng vốn… này chính là Phật:

Chỉn Bụt là lòng

Hãy xá ướm hỏi đòi cơ Mã Tổ.

(Hội thứ Ba)

Vậy mới hay

Bụt ở cong (trong) nhà

Chẳng phải tìm xa

Nhân khuấy bản nên ta tìm Bụt

Đến cốc (biết) hay chỉn Bụt là ta.

(Hội thứ Năm)

Dựng cầu đò, giồi chiền (chùa) tháp,

Ngoại trang nghiêm sự tướng hãy tu.

Săn hỷ xả, nhuyễn từ bi,

Nội tự tại kinh lòng hằng đọc.

Rèn lòng làm Bụt

Chỉn xá tua một sức dồi mài

(Hội thứ Tám)

Phật ở trong nhà, chẳng phải tìm xa, bởi vì quên gốc (khuấy bản) nên chúng ta chạy đông chạy tây tìm Phật. Bản là gốc, nguồn gốc, nền tảng. Bản là bản tánh, bản tâm, là Phật tánh, là pháp thân, là tánh Không - tánh sáng. Đến khi nhận biết cái thật nơi chính mình, “mới hay chỉn Bụt là ta”.

Phật vốn ở nơi ta, nhưng vì phiền não chướng và sở tri chướng do chúng ta bồi đắp nên, mà bản Phật bị khuất lấp. Nên để thấy Phật, phải giải trừ những che chướng, đó gọi là “rèn lòng làm Bụt”.

Một điều quan trọng là người ta có thể “rèn lòng làm Bụt” bằng những hạnh Bồ tát ở thế giới ‘bên ngoài’. Hạnh Bồ tát hợp nhất tất cả trong ngoài:

Dựng cầu đò, giồi chiền tháp

Ngoại trang nghiêm sự tướng hãy tu.

Săn hỷ xả, nhuyễn từ bi

Nội tự tại kinh lòng hằng đọc.

Cuộc sống thế gian không chỉ để con người nhận ra tính hữu hạn, vô thường, khổ, vô ngã của mình mà còn là một môi trường, một đạo trường để tự tịnh hóa, tự hoàn thiện trong khi làm việc giúp đỡ những người khác trong chính cuộc sống thế gian này.

 

Ở đây trích ra một đoạn để giải đáp thắc mắc: tại sao Nó thường trụ rỡ ràng ngay trước mắt mà chúng ta không thấy?

 

Dứt trừ nhân ngã,

Thì ra thực tướng kim cương.

Dừng hết tham sân,

Mới lảu lòng mầu viên giác.

Tịnh độ là lòng trong sạch

Chớ còn ngờ hỏi đến Tây phương.

Di đà là tánh sáng soi,

Mựa phải nhọc tìm về Cực Lạc.

(Hội thứ Hai)

 

Thực tại thì không có cái tôi, không có đối tượng của cái tôi, nói theo kinh điển là “vô ngã và vô pháp”. Tất cả là Một Lòng (Nhất Tâm). Nhưng vì vô minh khởi lên phân biệt thành ra có một cái tôi và những cái khác với cái tôi ấy là người khác và thế giới. Trên cái thấy lầm lẫn ấy, tham sân… các phiền não sanh ra để làm thành thế giới sanh tử khổ đau.

Không có vọng tưởng ta - người, thế giới trở lại thành “thật tướng kim cương”. Dừng hết tham sân do chính mình xây dựng thì “lòng mầu viên giác” hiển hiện. Thật tướng kim cương và lòng mầu viên giác, chính là “khuôn mặt chúa Xuân”, cũng là khuôn mặt xưa nay của mỗi người. Vì “tất cả chúng sanh đều có Phật tánh” (Kinh Đại Bát Niết Bàn).

 

“Lòng trong sạch” là sự xưa nay thanh tịnh của Nhất Tâm, đây là Phật, “chỉn Bụt là lòng”.

Khi đã chứng thực được “chỉn Bụt là lòng”, thì Phật A Di Đà chính là “Bụt ở trong nhà”, Phật A Di Đà chính là lòng mình, pháp thân của Phật A Di Đà và pháp thân của mình là một. Khi ấy nhận biết rằng Phật A Di Đà là tánh Không - tánh sáng, “Di Đà là tánh sáng soi” của lòng mình.

 

Ngài Trần Nhân Tông, cũng như Lục Tổ Huệ Năng (Pháp bảo Đàn Kinh, phẩm Nghi Vấn thứ ba), không bác bỏ cho rằng không có cõi Tịnh độ Tây phương. Ngài chỉ nói “chớ còn ngờ hỏi đến Tây phương”, “mựa phải nhọc tìm về Cực Lạc”. Sở dĩ như thế vì dù đến được Tây phương Cực lạc, dù ở trong Cửu phẩm Liên Hoa thì vẫn phải tu cho đến hoàn toàn đạt đến pháp thân để thành Phật. Mà ở cõi này cũng có pháp thân đầy khắp (phổ mãn), và ở ngay trước mắt (hiển hách mục tiền). Thế nên ở cõi này mà tu được pháp thân thì khỏi “đi tìm xa”.

 

Đây là mùa Xuân hiện tiền của Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông.

Bài viết liên quan