NỐI KẾT VỚI VŨ TRỤ
Nguyễn Thế Đăng
-------o0o-------

1/ Nối kết tạo thành xã hội
Từ thời săn bắn hái lượm con người đã nối kết với nhau để sinh sống, để chống lại thú dữ, để giúp đỡ nhau tạo thành lợi ích chung.
Đến văn minh nông nghiệp, người ta phải làm việc với nhau để gieo và gặt, để cùng nhau chống lại thiên tai. Xã hội này gọi là xã hội nông nghiệp, dần dần tạo thành làng xã và rồi một quốc gia.
Đến văn minh công nghiệp người ta lại càng nối kết với nhau hơn nữa, vì không ai có thể một mình tạo ra một chiếc xe hơi, in được một cuốn sách. Sự nối kết công nghiệp mở rộng đến tầm mức một nhóm quốc gia, chẳng hạn làm ra một chiếc máy bay, do nhiều nhà máy của vài quốc gia hợp tác.
Cá nhân nối kết với cá nhân qua điện thoại dây rồi điện thoại di động. Người ta đi thăm nhau, đi du lịch thì có máy bay...
Hiện nay, bước qua thời đại hậu công nghiệp, công nghệ thông tin, trí thông minh nhân tạo, người ta càng dễ nối kết hơn nữa, qua mạng internet, facebook...
Nối kết giữa con người đã tạo thành xã hội, càng ngày càng văn minh. Và những trục trặc trong xã hội, trong gia đình, đều là những trục trặc trong nối kết, dần dần tạo thành xung đột. Giữa các quốc gia với nhau thì xảy ra chiến tranh.
2/ Ba tầng nối kết
Con người có ba tầng đời sống: tầng thân thể giác quan, tầng ý thức, và tầng tâm linh. Nhờ ba tầng này mà ta có thể nối kết với thế giới vật lý, thế giới ý thức và thế giới tâm linh.
- Thân thể giác quan: với mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, chúng ta chia sẻ với các loài động vật và loài người một thế giới vật lý.
Nhờ thân thể giác quan, chúng ta nối kết với người khác: một cái bắt tay, một nụ cười, một cái ôm...
- Nhưng thân thể giác quan dựa vào tầng ý thức, đây là tầng khiến chúng ta vượt hơn loài động vật. Chính ý thức khiến chúng ta biết cười, một ngôn ngữ cơ thể, khi nào nên cười, tại sao cười, trong khi các loài động vật không biết cười.
Ý thức đã tạo ra ngôn ngữ, càng ngày càng phong phú để con người có thể nối kết với nhau, hiểu nhau hơn. Ý thức đã tạo ra một địa cầu thứ hai, với những thành phố, đường sá, những cuốn sách văn chương và triết học, những khoa học để tìm hiểu thế giới chung quanh. Ý thức đã giúp con người nối kết với thế giới, với người khác một cách sâu rộng chưa từng có: mạng xã hội, mạng internet...
Nói về văn minh, con người đã tiến bộ rất xa so với cách đây chỉ vài trăm năm. Nhưng cùng với những tiến bộ thần kỳ ấy, người ta cũng dần dần nhận ra những vấn nạn chưa giải quyết được, và có thể không bao giờ được giải quyết: nhiệt độ nóng lên toàn cầu, hệ sinh thái bị phá hủy phải nhiều trăm năm mới gầy dựng lại được và không biết có gầy dựng lại được không khi dân số trái đất càng ngày càng đông. Chiến tranh vẫn xảy ra với những vũ khí sát thương quá mạnh, hố ngăn cách giàu nghèo càng thêm lớn, những tệ nạn xã hội càng tăng thêm...
Nhưng ở đây chỉ nói đến cuộc đời con người cá nhân.
Sự nối kết thân thiết nhất của một cá nhân là với người khác phái để lập nên một gia đình và sau đó với con cái. Sự nối kết cả hai mặt thân thể và ý thức tạo thành hôn nhân này vẫn chưa đủ, người ta vẫn thấy thiếu thốn, và đôi khi trống rỗng, bất toại nguyện.
Xã hội cho người ta nhiều sự nối kết hơn nữa, với công việc, nghề nghiệp, sự nghiệp; với lương bổng, tiền tài; với danh vọng, uy quyền...Nhưng người ta vẫn cảm thấy thiếu thốn trống rỗng. Và lấp đầy sự trống rỗng này bằng văn hóa tiêu dùng, đi mua sắm, bằng công nghệ giải trí, đi chơi, đi du lịch, nhiều khi chẳng có ý nghĩa gì lắm... Có vô số cách để lãng quên cái “nhu cầu tối hậu” mà vẫn chưa được tìm thấy.
Thế nên, mặc cho tầng thân thể và tầng ý thức (xã hội học, tâm lý học, vật lý học, sinh học, kinh tế học...) phát triển mặt rộng và sâu nhanh chóng đến không ngờ, người ta vẫn thấy “cụ già tôn giáo” từ hơn hai ngàn năm nay vẫn sống, và vẫn đứng đó làm nền tảng cho đời sống nhân loại. Ở các nước GDP cao nhất, vẫn có khoảng 75% dân số nói rằng họ có tôn giáo.
Chính trên một cơ sở ý thức vững chắc và phát triển mạnh mẽ này mà người ta nhìn ra tầng tâm linh như một ngọn núi mịt mù trong khói bụi và mây sương của lịch sử nhân loại, sẵn sàng cung cấp “nhu cầu tối hậu”, “ý nghĩa tối hậu”... cho con người. Ít nhất người ta vẫn tin rằng có một đời sống nào, một hiện hữu nào, một cái gì gọi là tâm linh, vượt khỏi đời sống bình thường và tầm thường của tầng thân thể và tầng ý thức.
3/ Nối kết của tâm linh
Nhưng tâm linh là gì? Như đã nói ở chỗ khác nhiều lần, ở đây chỉ nhắc lại vài định nghĩa.
Tâm linh là “tự tánh”, (Lục Tổ Huệ Năng), là “vô vị chân nhân”(Tổ Lâm Tế), là “Phật tánh Như Lai tạng”(Kinh Đại Bát Niết bàn), là “ông chủ”(Thiền tông), là “bản tánh của tâm” (nature of mind - Đại Ấn và Đại Toàn Thiện), là tánh Không và tánh sáng (Điều ngự Giác hoàng Trần Nhân Tông, cũng là chữ để chỉ thực tại của Đại Ấn và Đại Toàn Thiện)...
Tâm linh là bản tánh của tâm (nature of mind), đồng thời là bản tánh của tất cả các hiện tượng (the nature of phenomena, pháp tánh, dharmata). Thế nên tâm linh hợp nhất được tầng thân thể giác quan và tầng ý thức vào trong thực tại tâm linh.
Nói dễ hiểu, ở nơi con người, tâm linh hợp nhất tâm và vật vào một thể thống nhất.
Đó là ‘ở bên trong’. Còn ‘bên ngoài’, tâm linh nối kết và hợp nhất tất cả các sự vật, các thế giới, tất cả mọi người mọi chúng sanh vào trong một thể thống nhất, mà kinh điển gọi là Phật tánh Như Lai tạng.
Tâm linh là bản tánh của tâm.“Tâm” ở đây là tất cả những ý nghĩ, những cảm xúc tốt xấu khởi lên, có mặt chốc lát, rồi biến mất. Bản tánh của mọi ý nghĩ, mọi cảm xúc, mọi thứ hợp tạo thành tâm thì luôn luôn có mặt nơi mỗi ý nghĩ, mỗi cảm xúc, mỗi tâm; đồng thời thấu suốt qua chúng, nghĩa là không nhiễm ô bởi chúng.
Thể nghiệm được bản tánh của tâm, an trụ trong đó thì người ta tự do với những biểu hiện, thay đổi, biến hóa của tâm. Như bầu trời, dù có mây hay không mây, dù có sấm chớp hay không, nó vẫn là nó, không gian vẫn là không gian, không vì bất cứ một cái gì khác trong nó mà thay đổi, biến chất.
Bản tánh của các hiện tượng hay pháp tánh cũng vậy. Nó có mặt trong mỗi hiện tượng, nhưng không bị giới hạn cầm tù trong hiện tượng nào, mà xuyên thấu qua tất cả các hiện tượng, không hề nhiễm ô.
Thấy được bản tánh của mọi hiện tượng, an trụ trong bản tánh ấy, người ta tự do với mọi hiện tượng dù vẫn sống trong thế giới hiện tượng. Đó là điều kinh nói, ở trong sanh tử (thế giới của các hiện tượng) mà không bị nhiễm ô bởi các hiện tượng của sanh tử.
Thế nên nối kết và hợp nhất ở tầng tâm linh nghĩa là nối kết và hợp nhất với bản tánh của tâm, cũng là bản tánh của mọi hiện tượng. Đây là sự nối kết và hợp nhất với toàn bộ các hiện hữu, với toàn bộ vũ trụ, với tất cả chúng sanh.
Nhưng người ta có thể hỏi,“nối kết và hợp nhất với vũ trụ, mà vũ trụ có sanh thành, hoại diệt, chẳng lẽ rồi người ta cũng sanh thành, hoại diệt theo vũ trụ sao?”.
Ở trên đã nói bản tánh của mọi hiện tượng (vũ trụ) thì không sanh không diệt. Nó có mặt trong mỗi hiện tượng, nhưng không nhiễm ô bởi sự sanh diệt của các hiện tượng. Bởi thế nó mới được gọi là bản tánh.
Trong các kinh đều nói “chẳng phải tức, chẳng phải lìa”, nghĩa là bản tánh, pháp tánh, chẳng phải tức là các hiện tượng mà cũng chẳng phải lìa ngoài các hiện tượng. Nếu pháp tánh tức là các hiện tượng thì nó cũng phải sanh diệt như các hiện tượng; còn nếu nó lìa ngoài các hiện tượng thì con người sẽ không tìm thấy nó ở đâu cả trong cuộc sống của mình.
Nếu dùng ngôn ngữ của Tây phương, nó vừa là nội tại (immanent) vừa là siêu việt (transcendant).
-------o0o-------

