PHÁP TÁNH, BẢN TÁNH CỦA CÁC HIỆN TƯỢNG - Nguyễn Thế Đăng

PHÁP TÁNH, BẢN TÁNH CỦA CÁC HIỆN TƯỢNG

Nguyễn Thế Đăng

-------o0o-------

Pháp tánh (dharmata) là bản tánh của tất cả các pháp, bản tánh của tất cả các hiện tượng (the nature of phenomena). Như thế pháp tánh là nền tảng cho mọi hiện tượng xuất hiện.
PHÁP TÁNH, BẢN TÁNH CỦA CÁC HIỆN TƯỢNG - Nguyễn Thế Đăng

 

1/ Pháp tánh

Pháp tánh (dharmata) là bản tánh của tất cả các pháp, bản tánh của tất cả các hiện tượng (the nature of phenomena). Như thế pháp tánh là nền tảng cho mọi hiện tượng xuất hiện.

Kinh nói rất nhiều về pháp tánh, ở đây chỉ trích ra vài đoạn.

Kinh Pháp Hoa nói cái thấy biết của Phật (tri kiến Phật) là thấy biết thật tướng (thật tánh) của các hiện tượng, tức là của các pháp (“chư pháp thật tướng”).

Hệ thống Kinh Đại Bát Nhã nói bản tánh của tất cả các hiện tượng là tánh Không: Tất cả mọi hiện tượng là tánh Không (“Nhất thiết pháp Không”).

 

Thực hành trí huệ thấu rõ pháp tánh tức tánh Không là thấy pháp tánh tánh Không và an trụ trong đó:

Đại Bồ tát muốn thực hành Trí huệ Ba la mật, chẳng nên an trụ trong năm uẩn, mười hai xứ, mười tám giới, chẳng nên an trụ trong sáu đại chủng, mười hai nhân duyên.

Vì sao thế? Vì sắc và tướng sắc là Không, cho đến già chết và tướng già, chết là Không.

Sắc Không cho đến già, chết Không chẳng gọi là sắc cho đến chẳng gọi là già, chết. Lìa ngoài Không cũng không có sắc, cho đến lìa ngoài Không cũng không có già, chết. Sắc tức là Không, Không tức là sắc; cho đến già, chết tức là Không, Không tức là già, chết”.

Kinh Đại Bát nhã, phẩm Tập tán

 

Tánh của sắc và của tất cả sanh già bệnh chết là Không, như vậy trong pháp tánh tánh Không không có sắc cho đến sanh già bệnh chết, nghĩa là không có thế giới sanh tử.

 

Kinh Hoa Nghiêm nói về pháp tánh:

Chỗ chư Phật khai thị

Tất cả pháp phân biệt

Trong đây chẳng thể đắc

Vì pháp tánh thanh tịnh.

Pháp tánh vốn thanh tịnh

Vô tướng như hư không

Tất cả không năng (chủ thể) thuyết

Người trí quán như vậy.

Xa lìa khỏi tướng pháp

Chẳng thích tất cả pháp

Đây cũng không chỗ tu

Thấy được Đại Mâu Ni.

Như ngài Đức Huệ nói

Đây gọi là thấy Phật

Tất cả hạnh hiện hữu

Thể tánh đều tịch diệt.

(Phẩm Tu Di đảnh kệ tán, thứ 14)

Trong pháp tánh, tất cả các pháp, tất cả các hiện tượng, tất cả các hành động (hạnh) đều chẳng thể đắc, nói cách khác, trong pháp tánh không có thế giới hiện tượng sanh tử. Pháp tánh vốn thanh tịnh là như vậy, không có phiền não khổ đau.

 

Pháp tánh vốn vô sanh

Thị hiện mà có sanh

Trong đây không năng hiện

Cũng không vật được hiện.

Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân

Tâm ý sáu giác quan

Tất cả Không, vô tánh

Do vọng phân biệt có.

Hãy đúng (chân) lý quan sát

Tất cả đều vô tánh

Mắt pháp chẳng nghĩ bàn

Đây là thấy chân thật.

Hoặc vọng hay chẳng vọng

Hoặc thật hay chẳng thật

Thế gian cùng xuất thế

Chỉ là giả ngôn thuyết.

(Phẩm Bồ tát hỏi rõ, thứ 10)

Thấy chân thật là thấy pháp tánh vốn vô sanh, trong đó tất cả pháp đều vô tánh, nghĩa là đều tánh Không. Đây là cái thấy giải thoát cho mọi vọng tưởng, vọng thấy, mọi hành động trói buộc vì khởi từ cái tôi và cái của tôi, rồi chấm dứt cũng ở trong cái tôi và cái của tôi.

 

Tất cả các tông phái đều lấy pháp tánh tánh Không làm Nền tảng, Con đường, và Quả.

Lục Tổ Huệ Năng, người thiết lập Thiền tông thành một truyền thống tu tập của Đông – Á, nói về pháp tánh tánh Không như sau:

Thiện tri thức! Chớ nghe ta nói Không bèn bám chấp không. Thứ nhất chớ bám chấp không, nếu tâm trống không mà ngồi yên lặng, tức là bám chấp vào cái không vô ký.

Thiện tri thức! Hư không thế giới bao hàm vạn vật sắc tướng, mặt trời mặt trăng, tinh tú, núi sông đất đai, suối khe, cây cỏ, người thiện người ác, pháp thiện pháp ác, thiên đường địa ngục, tất cả biển lớn, các núi Tu di, đều ở trong cái Không. Tánh Không của người đời cũng lại như vậy”.

(Phẩm Trí huệ, thứ 2)

Thấy pháp tánh, thấy tánh Không, được Lục Tổ nói là “thấy Tánh”, là mục đích của Thiền tông, chữ này được dùng rộng rãi cho đến ngày nay.

 

Pháp tánh được đức vua – thiền sư Trần Nhân Tông gọi là “tướng thực kim cương”, “Chân Không”, “Chân Như”, “thực tướng”:

Dứt trừ nhân ngã

Thì ra tướng thực kim cương

(Cư trần lạc đạo phú, hội thứ 2)

 

Hỏi phép Chân Không,

Hề chi lánh ngại thanh chấp sắc.

Biết Chân Như, tin Bát nhã,

Chớ còn tìm Phật, Tổ tây đông.

Chứng thực tướng, ngõ vô vi,

Nào nhọc hỏi kinh, thiền nam bắc.

(hội thứ 4)

 

Với truyền thống Ấn - Tạng, mà đại diện là Đại Ấn và Đại Toàn Thiện, pháp tánh vẫn là Nền tảng, Con đường và Quả.

Ngài Dudjom Rinpoche (1904-1987), vị Nhiếp chính vương của phái Nyingma, nói về pháp tánh trong Đại Toàn Thiện như sau, trong Wisdom Nectar, Dudjom Rinpoché’s Heart Advice:

Theo trích dẫn này, Loại Tâm (sems sde) ám chỉ an trụ trong bản tánh của tánh giác trống không, pháp thân (dharmakaya). Loại Trống không Bao la (klong sde) ám chỉ an trụ trong bản tánh của những hiện tượng (the nature of phenomena, dharmata), không có hoạt động hay nỗ lực. Và loại Giáo huấn Cốt lõi (man ngag sde) ám chỉ an trụ trong bản tánh của những hiện tượng, vốn giải thoát một cách bổn nguyên, thoát khỏi những hạnh chấp nhận hay chối bỏ”.

 

Cũng trong cuốn sách ấy, ngài Dudjom Rinpoche trích dẫn Tổ thứ nhì của phái Kagyu là Naropa:

Bản tánh của những hiện tượng khác biệt

Là dharmata (pháp tánh), thế nên cả hai không lìa nhau.

Bởi thế, trong bản tánh quang minh của tâm – tâm trí huệ,

Trong đó (các hình tướng và pháp tánh) là không thể tách lìa –

Mọi sự xuất hiện là pháp tánh.

Tinh túy của mọi sự xuất hiện

Được thấy là chính trái tim của trí huệ

Và không thể diễn tả trong bản thân tinh túy của nó.

 

Như thế, pháp tánh là Nền tảng, Con đường, và Quả của mọi tông phái Đông - Á và Ấn - Tạng. Và pháp tánh phát xuất, có nguồn gốc từ Kinh Phật.

 

2/ Thực hành: Thấy và an trụ pháp tánh

Các Kinh đều nói thấy và an trụ thực tại pháp tánh tức là thực hành. Trong hệ thống Nền tảng, Con đường và Quả thì với một hành giả, Nền tảng là phải thấy, thấy nền tảng gọi là cái Thấy. Con đường gồm Thiền định và Hạnh. Thiền định và Hạnh là an trụ vào cái thấy, và Quả là kết quả của cái thấy, thiền định và quả. Dĩ nhiên quả có nhiều cấp độ, bốn bậc thánh của hệ Pali và mười cấp độ (địa) của Đại thừa.

 

Ở đây, lấy hai đoạn kinh Đại Bát nhã để làm rõ cái thấy và an trụ.

Cái thấy tánh Không được nói trong phẩm Phụng bát:

Ngài Xá Lợi Phất! Lúc thực hành Bát nhã ba la mật, đại Bồ tát chẳng thấy Bồ tát, chẳng thấy danh từ Bồ tát, chẳng thấy Bát nhã ba la mật, cũng chẳng thấy ta có thực hành Bát nhã ba la mật hay không thực hành Bát nhã ba la mật.

Vì sao thế? Vì Bồ tát và danh từ Bồ tát, tánh vốn rỗng không. Trong tánh Không chẳng có sắc, thọ, tưởng, hành, thức; lìa ngoài sắc, thọ, tưởng, hành, thức cũng chẳng có tánh Không. Sắc thọ tưởng hành thức tức là tánh Không, tánh Không tức là sắc thọ tưởng hành thức.

Vì sao thế? Vì chỉ có danh từ gọi là Bồ đề, chỉ có danh từ gọi là Bồ tát, chỉ có danh từ gọi là tánh Không. Vì sao thế? Vì thật tánh của các pháp (pháp tánh) vốn là không sanh, không diệt, không dơ, không sạch.

Đại Bồ tát thực hành Bát nhã ba la mật như vậy cũng chẳng thấy sanh, chẳng thấy diệt, cũng chẳng thấy dơ, chẳng thấy sạch”.

 

Cái thấy tánh Không là Bát nhã (Trí huệ) ba la mật. Thực hành Trí huệ ba la mật là an trụ trong cái thấy tánh Không này.

Như Bố thí ba la mật, về Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền na và Bát nhã ba la mật cũng vậy. Chẳng phải vì bao nhiêu người, mà chính là vì tất cả chúng sanh mà Đại Bồ tát an trụ Bát nhã ba la mật và thực hành Bát nhã ba la mật”.

(Phẩm Phú Lâu Na)

Trong kinh Đại Bát Nhã, thấy tánh Không và an trụ tánh Không được nói rất nhiều, đây chính là sự thực hành Bát nhã ba la mật.

 

Trong Kinh Hoa Nghiêm, Phật khai thị pháp tánh để hành giả thấy và an trụ trong đó, cũng tức là chỗ an trụ của chư Phật.

Chỗ chư Phật khai thị

Tất cả pháp phân biệt

Đây đều bất khả đắc

Vì pháp tánh thanh tịnh.

Pháp tánh vốn thanh tịnh

Vô tướng như hư không

Tất cả không năng thuyết

Người trí thấy như vậy.

(Phẩm Tu Di đảnh kệ tán, thứ 14)

 

Cho nên để được giải thoát và giác ngộ, hành giả phải thấy và an trụ trong pháp tánh thanh tịnh, vì đó là chỗ an trụ của chư Phật.

Như Lai khắp hiện thân

Đều vào khắp thế gian

Tùy chúng sanh thích ưa

Hiển thị thần thông lực.

Phật tùy tâm chúng sanh

Hiện khắp ở trước họ

Chỗ chúng sanh được thấy

Đều là thần lực Phật.

Quang minh chiếu vô biên

Thuyết pháp cũng vô lượng

Phật tử tùy trí mình

Vào được, quan sát được.

Phật thân vốn vô sanh

Mà thị hiện xuất sanh

Pháp tánh như hư không

Chư Phật trụ trong đó.

(Phẩm Như Lai hiện tướng, thứ 2)

 

Các kinh đều nói thấy và an trụ pháp tánh. Cái thấy này là do hành giả dùng thiền định thiền quán “quán sát” những câu kinh Phật diễn tả, khai thị, hiển thị pháp tánh. Chẳng hạn, “pháp tánh vốn thanh tịnh, vô tướng như hư không”, “Như Lai khắp hiện thân, đều vào khắp thế gian”, “Phật tùy tâm chúng sanh, hiện khắp ở trước họ”…

Thực hành thiền định thiền quán lâu ngày, những che chướng rơi rụng bớt, và hành giả thấy trực tiếp pháp tánh, “Như Lai khắp hiện thân, hiện khắp ở trước họ”.

 

Nếu đủ duyên may, phước đức, hành giả gặp được các vị đã thấy trực tiếp pháp tánh, và đã “lão tham”, đủ năng lực, để “giới thiệu vào” pháp tánh cho hành giả. Khi ấy hành giả sẽ:

Phật tử tùy trí mình

Vào được, quán sát được.

Khi cái thấy pháp tánh đã hiển lộ, hành giả thiền định và hạnh, nghĩa là an trụ vào pháp tánh để dần dần trụ vào giải thoát và giác ngộ của chư Phật:

Pháp tánh như hư không

Chư Phật trụ trong đó.

Bài viết liên quan