THỰC HÀNH VIỆC RỘNG TU CÚNG DƯỜNG NHƯ THẾ NÀO?
TRÍCH: MƯỜI ĐẠI NGUYỆN CỦA BỒ TÁT PHỔ HIỀN – ĐẠI SƯ TINH VÂN
Việt dịch: Chân Như Pháp - NXB Dân Trí, 2024
--o0o--

4.1. Đối với quốc gia phải tận trung
Nếu không có đất nước che chở làm sao có được nhà cửa đất đai, cuộc sống yên ổn? Mỗi người chúng ta, phải nên tận trung, yêu quốc gia của mình. Chúng ta phải có trách nhiệm đối với việc nộp thuế, phải bảo vệ quốc gia, luôn tuân thủ các pháp lệnh, giữ gìn và bảo vệ an ninh, trật tự xã hội. Tất cả những việc làm đó đều là biểu hiện lòng tận trung với nước. Thậm chí nếu quốc gia gặp nguy nan cần đến chúng ta, chúng ta cũng phải “hy sinh thân mạng để giữ trọn khí phách, hy sinh sự sống để giữ nghĩa khí, giữ gìn bảo vệ đất nước”.
Giả như, chúng ta không hết lòng tận trung, bảo vệ quốc gia, khi đất nước bị xâm lược hoặc trong nước xảy ra nạn tham ô, gặp thiên tai, để giải trừ những điều đó đất nước cần chúng ta dốc sức phục vụ, đó chính là đạo lý “quốc gia hưng suy đều có trách nhiệm của mỗi người dân”.
Khi đất nước Ca Tỳ La Vệ của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni bị vua nước Lưu Ly xâm chiếm, Ngài đã ba lần đứng ở giữa đường nhằm ngăn chặn nhà vua dẫn binh xâm chiếm nước mình. Vua Lưu Ly vì niềm tôn kính đối với Đức Phật, liền xuống ngựa đến trước Ngài và nói rằng: “Bạch Đức Thế Tôn, Ngài không nên đứng ở giữa đường, dưới nắng nóng của mặt trời, Ngài nên ngồi dưới gốc cây sẽ mát hơn”. Đức Phật trả lời: “Sự che mát của gia tộc, của người thân, mới là sự che mát tốt nhất” nghĩa là, khi quốc gia của ta không còn thì sự che mát nào n còn ý nghĩa gì? Quốc gia chính là sự che chở, là nơi an trú tốt nhất của chúng ta”.
Người xưa nói “Tổ chim đã bị phá, trứng còn nguyên vẹn được sao?” Nước mất thì nhà tan, làm sao ta có thể sống an bình được. Có thể thấy, đối với mỗi người, đất nước rất quan trọng, nếu không giữ gìn đất nước, chúng ta làm sao có thể an cư lạc nghiệp? Làm sao có thể mở mang dân tộc, mở mang văn hóa?
Trong thời kỳ kháng chiến, Đại sư Viên Anh vì đứng lên khởi nghĩa chống Nhật mà bị bắt. Ở trong ngục tối chịu bao sự tra khảo, nhưng ngài không từ bỏ ý chí, hoài bão, trước khi lâm chung còn để lại di chúc cho đệ tử rằng: “Xin cho tất cả đệ tử Phật trong nước tôi đồng lòng chung sức, tích cực tham gia cuộc vận động yêu nước, dốc hết sức vì sự nghiệp hòa bình của dân tộc. Mọi người phải nên nghĩ đến việc bảo vệ quốc gia và lợi ích của nhân dân, đây chính là nền tảng của việc tu đạo, là việc đứng đầu trong các việc thiện”. Việc này không phải là thể hiện tinh thần yêu nước, lòng tận trung vì nước sao?
Đại sư Thái Hư trong “Thất thất sự biến” kêu gọi Phật tử cả nước phải “anh dũng đứng lên bảo vệ tổ quốc”. Để vạch trần những hành động xâm chiếm của Nhật Bản tại Trung Quốc, ngài đã lãnh đạo một “phái đoàn Phật giáo” đến Miến Điện, Thái Lan và các nước khác. Chuyến đi này đã nhận được được sự ủng hộ nhiệt tình của bạn bè quốc tế, ngay sau đó nguồn viện trợ cho cuộc kháng chiến từ Myanmar vận chuyển bằng đường sắt để kịp thời cung ứng cho tình trạng khó khăn, thiếu thốn trong nước. Thậm chí, ngài còn tổ chức “Đội cứu tế Tăng già” trực tiếp tham gia kháng chiến. Ngoài ra, ngài còn đưa ra chủ trương “Niệm Phật không quên việc cứu nước, cứu nước thì phải niệm Phật”. Tất cả đều thể hiện tinh thần cống hiến hết mình của Phật giáo đối với đất nước.
Ngay cả trong thời đại hòa bình, chúng ta không phải tranh đấu hy sinh xương máu mà vẫn có thể nỗ lực cống hiến đem lại vinh quang cho đất nước, giành địa vị cho đất nước trên trường quốc tế như: Ngô Kiện Hùng nhà vật lý học nổi tiếng thế giới, được khoa học quốc tế gọi là “Maria Curie của Trung Quốc”; Kỷ Chính “bước nhảy của linh dương”, được hãng Thông tấn Mỹ phong là “người phụ nữ chạy nhanh nhất thời đại”. Những bức tranh của danh họa Trương Đại Thiên, Tề Bạch Thạch được cả thế giới ngưỡng mộ; ngôi sao võ thuật Lý Tiểu Long và những người khác, nhờ những màn biểu diễn xuất sắc trong giới kungfu, được người đời ca tụng. Tất cả họ đều đã cống hiến cả đời mình cho quốc gia, xã hội và họ là những tấm gương cho sự nỗ lực phục vụ cống hiến.
4.2. Đối với xã hội phải tận tâm phục vụ
Một người đệ tử Phật có thể tiếp nhận lời dạy của Đức Phật, đồng thời cũng làm ảnh hưởng đến những người xung quanh. Cùng nhau tịnh hóa thân tâm, thấm nhuần Phật pháp, đó chính là cách cúng dường tốt nhất đối với bản thân, xã hội và cả chúng sinh. Hơn thế nữa, nếu một người có thể giảng về Phật pháp, dù là chỉ bốn câu kệ, nhưng trong đó đều có thể ẩn chứa trí tuệ Bát nhã, khiến cho mọi người trong xã hội thường tư duy và thực hành, chẳng những lợi ích cho bản thân, còn có thể giúp cho xã hội được tịnh hóa và an định.
Có một thương nhân buôn bán bên ngoài, vào dịp cuối năm, vội vội vàng vàng trở về quê ăn tết. Người thương nhân đang đi bỗng nhiên gặp một vị hòa thượng đang bán những “câu kệ”, hòa thượng còn nói những câu kệ này có thể giải quyết tất cả ách nạn trong thiên hạ. Người thương nhân nghe vậy rất hiếu kỳ, liền trả hai lạng vàng xin bốn câu kệ “Bước tới ba bước nên suy nghĩ, bước lui ba bước nên suy nghĩ, khi nóng giận phải suy nghĩ, ngừng cơn nóng giận mới an ổn cát tường”. Trước khi rời đi, vị hòa thượng còn từ bị căn dặn: “Ngay khi ông tức giận không thể kiềm chế được thì hãy đọc câu kệ này”. Người thương nhân tuy cảm thấy mình bị lừa, nhưng nhìn thấy đối phương là người xuất gia, nên cũng bỏ qua sự việc.
Khi người thương nhân về đến nhà thì đã là nửa đêm, bước vào phòng, dưới ánh sáng lờ mờ ông ta nhìn thấy phía dưới giường ngoài đôi dép của người vợ còn có một đôi dép của người đàn ông khác. Khi ấy, người thương nhân vô cùng tức giận, thở xồng xộc chạy vào nhà bếp cầm một con dao thái rau định giết chết hai người đang nằm trên giường kia. Nhưng ngay lúc này, ông ta đột nhiên nhớ lại bốn câu kệ vừa mua được từ vị hòa thượng, ông ta vừa niệm vừa bước tới bước lui, cũng vì thế mà đánh thức người vợ dậy. Khi hỏi rõ sự việc ông mới biết rằng, người vợ muốn có điềm lành trong thời khắc bước sang năm mới, nên đã đặt hai đôi dép của hai vợ chồng phía dưới giường.
Kinh Bốn câu kệ này đã cứu được một gia đình, đây chính là năng lực trí tuệ của Phật pháp. Chỉ vài câu kệ ngắn gọn nhưng lại khai mở tâm trí của chúng ta, khi quyết định hay phán đoán nhanh một sự việc, nó sẽ giúp chúng ta đưa ra quyết định sáng suốt. Trí tuệ giống như chiếc gậy, có thể giúp người mù đi đường, cũng giống như nước mát cam lồ, có thể xua tan phiền não nóng giận.
Một ví dụ khác, vào thời Đức Phật tại thế có bà Tỳ Xá Khư sống ở thành phía Đông, bà đã bán một chiếc áo trị giá 900 triệu để xây dựng giảng đường cho Đức Phật. Vì muốn cảm ơn bà Ngài đã đặt tên là giảng đường Lộc Mẫu. Ngoài ra, Tỳ kheo ni Đại Ái Đạo, đã dẫn Ni chúng tham gia hoạt động cứu trợ xã hội, ngoài việc khuyến khích người nữ quy y, phát triển mô hình gia đình Phật tử, bà còn rất quan tâm đến việc giáo dục trẻ em, để giáo pháp của Đức Phật có thể đi sâu vào cuộc sống của nhân gian, vô hình trung đã làm tăng lên phong khí tốt đẹp thiện lành trong xã hội.
Ngoài ra, con gái của vua Ba Tư Nặc là Phu nhân Thắng Man, từ nhỏ bà đã nhận được sự dạy bảo tận tình của vua cha và hoàng hậu, vì thế bà không chỉ biết quy y kính ngưỡng Đức Phật, mà còn thông hiểu giáo nghĩa và thường thuyết giảng đạo lý cho phụ nữ và các bé gái ở trong triều. Cuối thời Đông Tấn, dù trong tình thế đất nước loạn động bất an, Đại sư Đạo An vẫn không ngừng giảng kinh thuyết pháp. Trong thời đại này, các chùa viện, đoàn thể đã tổ chức rất nhiều hoạt động hoằng pháp để giúp tín đồ, Phật tử tịnh hóa thân tâm. Kể từ khi thành lập Hội Phật Quang Quốc tế, Hội đã tổ chức rất nhiều buổi thuyết giảng đem lại lợi ích cho mọi người, công việc này hội đã thực hiện mấy chục năm nay chưa từng gián đoạn, cho đến việc phát hành các loại sách đọc, sản phẩm băng hình, hoặc tổ chức nhiều loại hình hoạt động khác. Tất cả những điều này đều nói lên sự cống hiến và một phần trách nhiệm của Phật giáo đối với xã hội.
4.3. Cứu trợ các tai nạn xảy ra trên thế giới
Trong kinh Bát đại nhân giác có nói “Thế gian là vô thường, quốc gia luôn bị nguy hiểm”. Cho dù là do tự nhiên hay con người gây ra, theo thời gian các loại thiên tai, họa hoạn đều sẽ phát sinh. Những thiên tai, họa hoạn này đã gây thiệt hại cho tính mạng và tài sản của con người, thậm chí còn gây ra những biến đổi vĩnh viễn mà không thể thay đổi đối với môi trường, hoàn cảnh hoặc hệ sinh thái. Tuy nói các hành là vô thường, nhưng có thể trong thế gian vô thường này, dùng hết tâm sức mình đem đến một chút tình thương ấm áp cho thế giới, là trách nhiệm của mỗi chúng ta.
Mấy năm gần đây, đã xảy ra nhiều thảm họa quốc tế lớn, chẳng hạn như, vụ khủng bố tấn công Trung tâm Thương mại Thế giới ở Hoa Kỳ vào ngày 11 tháng 9 năm 2001. Không lâu sau đó, trong dịp đến nước Mỹ hoằng pháp, tôi đã dẫn hơn một trăm đệ tử đến hiện trường để cầu nguyện cho các nạn nhân và cầu bình an cho những người sống sót. Rất nhiều nạn nhân và gia đình thoát chết trong thảm họa này phải chịu nỗi đau, tổn thất quá lớn và họ rất cần sự sự chung tay giúp đỡ của mọi người để thoát ra khỏi bóng đen của thảm họa. Vì thế, các đạo tràng Phật Quang ở khắp nơi trên thế giới, liền trở thành những “trạm xăng” cung cấp nhiên liệu thông qua những việc như trực tiếp hỗ trợ, an ủi, xoa dịu tinh thần và chi viện, cứu tế nhân đạo cho những người dân bị thảm nạn.
Vào tháng 12 năm 2004, một trận động đất mạnh chín độ richter xảy ra ở Sumatra Indonesia, gây ra thảm họa v ở sóng thần nghiêm trọng ở các nước láng giềng như Ấn Độ, Malaysia, Sri Lanka và các khu vực khác. Trận sóng thần khiến cho 200.000 người thiệt mạng, hàng triệu người phải ly tán người thân, nhà cửa bị phá hủy. Ngay khi đó, Phật Quang Sơn liền phát động tinh thần, “Người đói ta đói, người bị đuối nước, ta cũng bị đuối nước” và huy động Hiệp hội Phật Quang quốc tế ở khắp năm châu thực hiện cứu trợ thiên tai khẩn cấp, đồng thời thành lập một tài khoản đặc biệt để gây quỹ và trực tiếp đến cứu viện, trợ giúp các khu vực chịu thiên tại tại nước Nam Á.
Ngoài ra, năm 2005 cơn bão Katrina ở Mỹ đã khiến hàng chục nghìn người mất nhà cửa. Hiệp hội Phật Quang Quốc tế và Phật Quang Sơn đã phát động hoạt động “Phật Quang Sơn gửi yêu thương”, nhằm kêu gọi thành viên của Hiệp hội Phật Quang Sơn đến hỗ trợ chính quyền địa phương trong công tác cứu hộ những người đang gặp nạn. tin tại trần Lê Vào tháng 4 năm 2015, một trận động đất mạnh 7,8 độ richter đã xảy ra ở Nepal, khiến hai di tích được xếp vào danh sách Di sản Văn hóa Thế giới ở thủ đô Kathmandu bị sụp đổ làm hơn 8.000 người thiệt mạng, trận động đất cũng khiến hơn 16.000 người bị thương, hàng triệu người không có nhà ở. Dưới sự kêu gọi của Phật Quang Sơn và Hiệp hội Phật Quang Quốc tế, tổng đội cứu viện “bốn trong một” của Nepal thuộc tổ chức “Tình cảm nhân loại và đồng thể cộng sinh” đã nhanh chóng đến Nepal để hỗ trợ.
Cứu trợ khẩn cấp có thể làm giảm bớt các nhu cầu cấp thiết trước mắt, nhưng việc xây dựng lâu dài là trách nhiệm và khả năng trong tương lai. Trong đó, việc tái tạo vật chất tuy quan trọng, nhưng cũng không thể xem nhẹ việc tái tạo lại tinh thần cho con người. Kinh Pháp hoa nói: “Con nguyện dùng lòng đại bi mở rộng cửa cam lồ”. Mong rằng tất cả chúng con, những người con Phật, hãy học tập tinh thần phụng hiến của chư Phật và chư Bồ tát, để những nạn nhân vơi đi nỗi sợ hãi, lo lắng, cảm giác bất an do thảm họa gây ra, sớm thoát khỏi cuộc sống khốn khổ, u ám và trở lại cuộc sống hiện tại.
4.4. Giúp đỡ những nơi kinh tế kém phát triển
Đối với người dân ở những khu vực xa xôi hẻo lánh hoặc những nơi văn hóa không phát triển, chúng ta nên quan tâm giúp đỡ nhiều hơn. Ví như, chúng ta có thể giúp người dân xây dựng trường học, thư viện, giúp họ có nhiều cơ hội tiếp cận giáo dục, cũng như làm tăng thêm tầm quan trọng của họ trong xã hội, khiến cho người dân có thể tự chủ sinh sống, phát triển kinh tế giàu mạnh, đây mới là sự giúp đỡ tốt đẹp cao quý nhất.
Vua A Dục của nước Ấn Độ, khi chưa tin Phật pháp, thường hay dùng vũ lực để chinh phục các nước yếu. Khi đến thăm các nước bị chinh phục này, ông nhìn thấy hai bên đường người dân đều tỏ vẻ nhiệt liệt hoan nghênh, nhưng sâu trong ánh mắt lại chứa đầy vẻ oán hận. Sau khi quy y Phật, ông dùng tinh thần từ bi và lòng nhân ái của Phật giáo để giúp đỡ người dân ở những nước này, và ngay khi ông đến đó lần thứ hai thì nhìn thấy tất cả người dân trong nước đều an lạc, vui vẻ, người người đều thể hiện lòng yêu mến kính phục. Tinh thần từ bi của Phật giáo thật sâu rộng, có thể bù đắp những chỗ mà chính trị không thể quan tâm đến được. Tinh thần nhẫn nhục của Phật giáo là không gì không thể chiết phục, nó có thể hóa giải những hiềm khích oán hận vô hình từ nhiều đời. Với tinh thần cảm ơn của Phật giáo thì không nguyện nào không thành tựu, và có thể lấp đầy hố tham muốn dục vọng. Trí tuệ của Phật giáo là không có việc gì không thành, có thể hiểu thấu được chân lý, diệt sạch hết vô minh.
Trách nhiệm chung của tất cả mọi người là làm cho các chủng tộc, các quốc gia, người dân trên thế giới đều có thể chung sống bình đẳng, hòa bình và lợi lạc. Vì thế, đối với những người dân nghèo khổ sống ở nơi xa xôi, chúng ta nên nêu cao tinh thần “Người đói mình đói, người nghèo mình nghèo” để chia sẻ và giúp đỡ họ, khiến cho mọi người đều có thể sống trong hòa bình và an lạc.
4.5. Khích lệ những thanh niên có tinh thần cầu tiến
Giáo dục là phương pháp gìn giữ và phát triển nền văn minh của nhân loại. Chủ tịch Unesco Địch Lạc Tăng từng nói: “Giáo dục là nền tảng tăng trưởng chung của nhân loại, phương hướng giáo dục chính xác thì tư chất, vẻ đẹp chân thiện mỹ của nhân loại sẽ được thăng hoa phát triển, sự tiến bộ và hòa bình của thế giới sẽ đạt được dễ dàng”. Từ điểm này có thể thấy, để điều hành một nền giáo dục tốt, trước hết phải đào tạo nhân tài. Có lần, Konosuke Matsushita - người sáng lập tập đoàn Panasonic, đã hỏi vị giám đốc nhân sự của mình: “Nếu ai đó hỏi anh công ty Panasonic sản xuất những sản phẩm gì, anh sẽ trả lời như thế nào?”
Giám đốc nhân sự trả lời: “Tôi sẽ nói công ty Panasonic chế tạo sản phẩm điện tử”.
Không ngờ ông Konosuke Matsushita nghe xong tỏ thái độ tức giận, tất cả các trưởng phòng nhân sự khác cũng không biết phải trả lời thế nào cho đúng.
Ông Konosuke Matsushita nói: “Nếu như anh không trả lời công ty Panasonic luôn bồi dưỡng nhân tài và chế tạo sản phẩm điện tử thì chẳng khác gì nói công ty không quan tâm đến việc bồi dưỡng nhân tài hay sao? Nhân tài là nền tảng của một doanh nghiệp, sản xuất, tiêu thụ, vốn lợi nhuận của công ty tuy rất quan trọng, nhưng quan trọng nhất vẫn là nhân tài, nếu thiếu đi nhân tài thì việc sản xuất, tiêu thụ và vốn lợi nhuận đều không thể phát huy. Cho nên, nếu như ngay bây giờ chúng ta không nỗ lực để đào tạo nhân tài thì công ty làm sao có được tiền đồ tươi sáng chứ?”
Sau đó, câu nói “Panasonic là công ty chuyên đào tạo nhân tài” trở thành câu danh ngôn mà mọi người trong công ty đều biết đến.
Hiện tại, mỗi một trường học đều có những quỹ học bổng, mục đích chính là khích lệ những học sinh, sinh viên ưu tú tập trung vào việc học tập, tương lai chúng sẽ trở thành nhân tài có ích cho nước nhà, cho xã hội.
Ông Triệu Bộc Sơ, nguyên Chủ tịch Hiệp hội Phật giáo Trung Quốc, vì rất quan tâm đến vấn đề bồi dưỡng, đào tạo nhân tài cho Phật giáo nên ông từng đã từng nói: “Có ba việc rất quan trọng trong Phật giáo. Thứ nhất là bồi dưỡng nhân tài, thứ hai là bồi dưỡng nhân tài và thứ ba cũng là bồi dưỡng nhân tài”. Vì thế, nếu có thể bồi dưỡng được một đội ngũ nhân tài thì tự nhiên họ sẽ hăng hái trong việc hoằng pháp độ sinh, xây dựng sự nghiệp giáo dục Phật giáo phát triển. Chỉ khi nào sự nghiệp Phật giáo hưng thịnh, người học đạo có kiến thức phong phú, bấy giờ Phật giáo mới có thể phát triển rộng khắp đem lại ích lợi đến với chúng sinh.
Thời cận hiện đại có cư sĩ Chu Tuyên Đức, một trong những người sáng lập Quỹ Học bổng Văn hóa và Giáo dục Quốc tế của Hiệp hội Phật giáo Trung Quốc, ông ấy cũng dùng phương thức trao học bổng để khuyến khích động viên những thanh niên chuyên nghiên cứu Phật học. Cư sĩ Ngô Tu Tề cũng lập ra lần ra rất nhiều quỹ học bổng, nhằm báo đáp xã hội. Cư sĩ Nghiêm Thoang Khoang Hộ đã quyên tặng học bổng với số tiền hàng triệu Đô la, ngoài ra, ông còn in kinh sách và xây dựng “Trường Tiểu học Hy Vọng Phật Quang” ở nhiều nơi. Ông Phan Hiếu Nhuệ cũng thường hỗ trợ cho Phật học viện ở Trung Quốc thành lập nhiều quỹ học bổng. Những điều này không phải đều nhờ sự cống hiến vô hạn của các danh sĩ mới có thể bồi dưỡng nhiều thanh niên ưu tú cho Phật giáo hay sao?
4.6. Người lớn, trẻ em đều có thể bồi dưỡng
Ngoài việc quan tâm, yêu thương và khích lệ học sinh nhỏ tuổi nhiều hơn, đối với những người lớn tuổi, chúng ta cũng không thể thiếu sự quan tâm chăm sóc. Lương Vũ Đế, người được mệnh danh là vị hoàng đế Bồ tát. Ông đã từng xây dựng nơi nuôi dưỡng người cô độc, giúp đỡ những em bé mồ côi và những người già không nơi nương tựa. Trước năm Gia Hựu thời Bắc Tống, triều đình chính thức thành lập viện Phúc Điền, viện Phúc Điền là viện cứu tế giống như viện dưỡng lão, nhà trẻ, trại tập trung, nơi cư trú yên ổn cho những người già, em bé tàn tật và cả những người không nơi nương tựa.
Trong những ngày đầu của Phật giáo Đài Loan (Trung Quốc), Đại sư Thái Hư và Pháp sư Đạt Quán đã từng sáng lập cô nhi viện ở Hồ Nam, Đại sư Ấn Quang phát động xây dựng trường mẫu giáo Từ thiện Phật giáo ở Nam kinh. Cư sĩ Hùng Hy Linh đã từng xây dựng trường mẫu giáo Từ thiện Hương Sơn. Hội Phật giáo Trung Quốc cũng đã từng xây dựng bệnh viện Phật giáo ở Nam Kinh. Chùa Thiên Ninh ở Thường Châu cũng xây dựng bệnh viện Phật giáo, v.v. qua đó chúng ta biết có rất nhiều vị cư sĩ Phật tử với tâm nguyện Bồ tát đã xây dựng bệnh viện, cô nhi viện, viện dưỡng lão, viện cứu tế.
Tuy nhiên, ngoài việc giúp đỡ những người già và trẻ em mồ côi không nơi nương tựa, chúng ta phải nên học theo việc rộng tu cúng dường của Bồ tát Phổ Hiền. Cúng dường bình đẳng, rộng lớn không có tâm phân biệt, tâm tính toán, tâm danh lợi, đối với cha mẹ con cái của mình cho đến tất cả cha mẹ và con cái của mọi người cũng đều phải kính trọng yêu thương bình đẳng như nhau.
Ngài Động Sơn Lương Giới thời Đường, trong cuốn Từ Bắc Đường thư có nói: “Nghe rằng tất cả chư Phật ra đời, đều là nhờ ân dưỡng dục từ cha mẹ, vạn vật phát triển hưng thịnh, đều nhờ ân của thiên nhiên che chở. Cho nên, không có cha mẹ thì không được sinh ra, không có trời đất thì không thể sinh trưởng tươi tốt, tất cả đều nhờ ân nuôi dưỡng của cha mẹ và nhờ đức che chở của trời đất”. Chúng ta cũng thường nói, làm người phải luôn nhớ câu “Nhận ân dù bằng một giọt nước thì phải biết dùng một dòng suối để đáp đền”, ân tình của vạn loại đều tích tụ trên thân của chúng ta, từ khi sinh ra đến nay, bao nhiêu ân tình, công lao sinh thành nuôi dưỡng, giáo dục của cha mẹ làm sao có thể báo đáp cho hết được.
Chúng ta thấy trên các phương tiện truyền thông thường đưa tin về một số em nhỏ, thanh thiếu niên do hoàn cảnh gia đình khó khăn mà phải vừa học vừa làm, dựa vào sức mình để hiếu dưỡng cha mẹ. Cũng có những người mẹ đơn thân đã vất vả làm công việc giặt giũ để kiếm thêm thu nhập lại vừa làm người nội trợ, dạy dỗ con cái khôn lớn. Cũng có những người sống cuộc đời tiết kiệm, giản dị chỉ vì muốn cống hiến cho xã hội.
Mặc dù vậy, trong xã hội vẫn còn rất nhiều người lớn tuổi, các em nhỏ có cuộc sống thiếu thốn hoặc không nhận được sự trợ giúp của quốc gia, xã hội hay sự chăm sóc của người thân trong gia đình, họ đang rất cần sự giúp đỡ của chúng ta. Ví dụ, những ngày đầu tôi tiếp quản viện cứu tế Nhân Ái ở huyện Nghi Lan (nay là nhà tình thương Nhân Ái), tôi cùng cư sĩ Từ Hòe Sinh sáng lập trường mẫu giáo Đại Từ với nguyện vọng nhận nuôi những đứa trẻ mồ côi. Chúng tôi lại tiếp tục thành lập phòng khám Phật Quang, bệnh viện Vân Thủy và Đội chẩn đoán y học, v.v.
Với sự tiến bộ của thời đại, thiết bị và kỹ thuật trong y học ngày càng hiện đại hóa, nhưng Phật Quang Sơn luôn giữ vững chủ trương “Dùng từ thiện làm phúc lợi cho xã hội” mà không thay đổi. Nhằm đáp ứng nhu cầu của người hiện đại, chúng tôi đã xây dựng nhiều trung tâm nuôi dưỡng, chăm sóc dành cho người cao tuổi, thông qua việc học tập giúp họ cảm thấy vui vẻ hơn trong cuộc sống tuổi già. Vào buổi đầu thành lập Phật Quang Sơn, có cư sĩ Thái Bảo Thành phát tâm tham gia việc chuyển vật liệu xây dựng. Sau này ông phát tâm đảm nhiệm công việc nấu ăn và từ đó gắn bó nhiều năm với đại chúng. Ông lấy Phật Quang Sơn làm nhà và dâng hiến cuộc đời mình cho nơi đây. Khi tuổi xế chiều, chúng tôi mời ông đến sống tại Phật Quang Tịnh xá để phần nào đáp đền công lao và giúp ông an tâm dưỡng già.
Ngoài ra, quỹ Từ thiện Phật Quang Sơn có đội chăm sóc thường trực, giúp những người già cô đơn không người nương tựa, vệ sinh nhà cửa, môi trường xung quanh, giúp họ tắm giặt, cắt móng tay, vá quần áo, tặng họ những vật phẩm thường dùng và dạy cho họ biết niệm Phật tu hành, v.v. Mục đích duy nhất là mong cho “Người già có chỗ an nhàn, thanh niên có chỗ hữu dụng, trẻ em có sự trưởng thành”.
4.7. Yêu thương bảo vệ động vật
Tất cả chúng sinh đều có Phật tính, Phật tính là cái vốn có ở mỗi người, không thể tìm cầu bên ngoài, cũng không phân biệt sai khác. Có chăng chỉ là khác biệt hình tướng chủng loại, như Hoàng Đình Kiên - nhà văn học triều Tống trong bài thơ về giới sát có nói: “Thịt ta thịt chúng sinh, tên khác tính không khác, vốn cùng chung một thể, chỉ sai khác hình thù”. Thế nên, đối với các loài động vật chúng ta phải nên bảo hộ và yêu thương, để chúng tránh khỏi sự sợ hãi.
Ngoài việc không giết hại loài vật, Phật giáo còn rất tích cực trong việc bảo vệ động vật. Bảo vệ động vật là sự tôn trọng đối với tất cả loài chúng sinh hữu tình. Ví như, ở Ấn Độ vào mùa hè, mưa kéo dài ba tháng, khi cây cỏ vừa đâm chồi, trên mặt đất sẽ xuất hiện nhiều côn trùng nhỏ, để tránh giẫm đạp và làm giết hại chúng, Đức Phật đã lập quy định “Kết hạ an cư”, để Tăng chúng trụ một nơi chuyên tâm tu học. Đây là sự tôn trọng dành cho tất cả loài chúng sinh hữu tình, đồng thời cũng là sự cúng dường vô hình, vô hạn bởi lòng từ bi của Đức Phật.
Đại sư Liên Trì thời nhà Minh, đã nói trong Văn phóng sinh: “Giết hại là việc tàn ác nhất trên thế gian. Thế nên loài vật khi gặp bủa vây, giăng bắt thì phải chạy trốn, con chấy con rận vẫn biết tránh cái chết, con kiến còn tham sống, tại sao chúng lại giăng lưới trên núi... khiến chúng vô cùng sợ hãi, hồn bay phách lạc, mẹ con xa lìa”. Ngài nói thêm: “Phàm người không có con cái thì buồn, có con cái thì vui, nhưng không nghĩ đến loài cầm thú, cũng yêu thương con của nó, vui vì mình có con, nhưng lại muốn con của muôn vật bị giết, vậy chúng ta có thoải mái vui vẻ được chăng?”
Trong bài văn về giới sát có kể một câu chuyện rằng:
Có một người thợ săn, buổi tối uống rượu say, nhìn thấy đứa con nhỏ của mình người thợ săn nghĩ nhầm là con nai ở trong rừng, thế là cầm lấy con dao nhọn giết chết, thậm chí còn mổ bụng đứa con. Sáng hôm sau, khi tỉnh rượu, người thợ săn gọi đứa con cùng đến chợ bán thịt nai, lúc này, người vợ đau lòng nói với anh ta rằng: “Đứa con trai yêu quý của anh, tối hôm qua đã bị anh giết chết rồi”. Người thợ săn nghe vậy ruột gan như tan nát, đau khổ không muốn sống nữa. Câu chuyện khiến người đời thở dài thương xót.
Tuy hình dáng giữa con người và động vật không giống nhau, nhưng lòng yêu thương con cái thì không sai khác. Cho nên, bậc cha mẹ cần phải dạy dỗ con cái quan niệm “Ta và chúng sinh đều cùng một thể” khiến cho con trẻ có lòng nhân từ yêu thương muôn loài.
Đối với động vật, Phật giáo luôn giữ quan niệm bình đẳng, từ bi cứu giúp muôn loài. Trong cuốn Truy môn sùng hành lục có ghi lại rất nhiều câu chuyện về bảo vệ động vật. Ví như, Pháp sư Pháp Lãng thời Nam triều đã dùng vật được cúng dường từ những lần thuyết pháp để in khắc kinh, tạo tượng Phật, xây dựng chùa tháp, cứu giúp những người nghèo khổ. Khi nhìn thấy những con vật bị bắt nhốt chờ chết, ngài đều mua về nuôi dưỡng và phóng sinh. Pháp sư Tuệ Bân thời Đường, vì sợ dẫm đạp lên các loại côn trùng nhỏ, nên mỗi khi bước chân ra ngoài ngài luôn dùng chổi quét nhẹ để xua đuổi côn trùng rồi mới bước đi. Tinh thần bảo vệ động vật của các ngài, có thể nói là một tấm gương cụ thể của việc thực hành tâm từ bi, yêu thương động vật trong Phật giáo.
Khi nói đến việc bảo hộ động vật, chúng ta lại nhớ cuốn Hộ sinh họa tập của cư sĩ Phong Tử Khải. Cuốn sách, là tập hợp các bức tranh về bảo hộ động vật, nội dung cuốn sách ngoài giới sát sinh, bảo hộ động vật, làm các việc thiện, nhân quả báo ứng, còn biểu dương tinh thần cùng yêu thương, cùng giúp đỡ. Trong kinh Pháp cú có nói: “Tất cả chúng sinh đều sợ chết, không ai là không sợ bị đánh đau, nên yêu thương vật như yêu thương mình, chớ đánh cũng chớ giết”. Trong thế gian không có gì đáng quý hơn sinh mạng, cho nên không được vì ham muốn vị ngon ngọt mà giết hại mạng sống của loài vật yếu thế không biết chống cự. Việc bảo vệ động vật không chỉ là giữ mạng sống cho loài vật, mà còn là tích thêm phúc đức và tuổi thọ của chính mình.
4.8. Việc bảo hộ đất nước, sông núi
Đức Phật giác ngộ đạo lý Duyên khởi, “Cái này có thì cái kia có, cái này sinh thì cái kia sinh, cái này không thì cái kia không, cái này diệt thì cái kia diệt”. Vạn sự, vạn vật trong thế gian đều có mối quan mật thiết với nhau, đều là pháp duyên sinh, có duyên thì sinh khởi, hết duyên thì diệt mất. Trong thế giới có sự kết nối trùng trùng này, nhổ một sợi tóc liền động đến toàn thân, mỗi một nhân tố đều có ảnh hưởng đến nhiều nhân tố khác. Con người muốn sinh tồn thì cần phải biết sống tôn kính, biết bảo hộ, biết yêu quý môi trường sống của mình hơn thế nữa đối với đất nước, núi sông càng cần phải bảo hộ.
Phật giáo không chỉ chú trọng về việc tịnh hóa tâm hồn, còn rất quan tâm tới việc bảo vệ môi trường sinh thái bên ngoài. Như Bồ tát Thiểm Tử có tâm từ bi hiền dịu, khi trên đường Ngài cũng không dám bước chân mạnh vì sợ dẫm đạp lên mặt đất, khi nói chuyện, Ngài cũng nói thật chậm rãi nhẹ nhàng vì sợ đánh thức lòng đất đang ngủ say. Trong kinh Tu Chân thiên tử cũng có nói: “Xem tất cả như thân của mình, như cha mẹ yêu thương con cái, thường có lòng từ bi, mà quan tâm đến khắp chúng sinh”.
Từ xưa đến nay, phần nhiều tăng chúng đều rất quan tâm đến việc bảo hộ đất nước, sông núi, do vậy những việc như trồng cây, bảo hộ rừng nhiều không thể nói hết. Ví như, Pháp sư Minh Viễn tại chùa Khai Nguyên, Tứ Châu, vì để phòng tránh thiên tai lũ lụt, bảo vệ môi trường và bảo tồn nguồn nước ngài đã trồng cả vạn loại cây như tùng, bách, gỗ lim, v.v. Cuối thời nhà Đường Pháp sư Vĩnh Tịnh đã từng khai hoang ba trăm mẫu ruộng và trồng hơn trăm ngàn cây tùng, ngài đã có cống hiến rất lớn cho việc bảo tồn nguồn nước và bảo vệ môi trường.
Đi Vào thời Đường, núi Hoành Sơn bị người dân phá rừng làm rẫy, Thượng tọa Nam Nhạc Huyền Thái đã làm bài Xa sơn dao, ca dao của người dân tộc Xa như sau:
“Trẻ em ở núi Xa không thể biết được, mỗi năm người dân phá hủy nét đẹp của núi rừng xanh tốt. Do vậy cảnh sắc núi Hoành vốn hùng vỹ xinh đẹp lại gãy đổ bởi búa rìu bén nhọn, cầm thú chim chóc không còn nơi trú ẩn, mây trắng lại nhuốm khói bay xa, đường núi hiểm trở vách đá dựng đứng nguy hiểm khó đi, giống như cây cỏ bị mất đi gốc rễ. Mỗi năm, mỗi năm đều chặt cây lấy đất để cày cấy trồng trọt, ngàn năm sau thật khó để phục hồi lại rừng. Lại nói, năm nay canh tác trồng trọt không nhiều, năm sau lại chặt cây ở phía sườn đồi khác. Núi Hoành (Thọ Nhạc) là một trong năm ngọn núi cao và đẹp nhất của thiên hạ mà còn như vậy, không biết sau này các ngọn núi khác sẽ như thế nào”. Sau khi đọc được bài ca dao này hoàng đế rất cảm động, ông liền ban hành lệnh cấm khai thác, chặt phá, đốt rừng.
Có một hôm Thiền sư Lâm Tế đi lên núi trồng cây, Thiền sư Hoàng Bích hỏi ông rằng: “Trên núi đã có nhiều cây như thế, làm sao ngài lại phải trồng thêm nữa?”
Thiền sư Lâm Tế trả lời: “Số cây kia đều do người xưa trồng, nay chúng ta cũng phải trồng thêm, để làm gương cho con cháu đời sau”.
Những hạnh đức từ bi, thương người thương vật như vậy thật đáng cho chúng ta học tập.
Từ trước đến nay, Phật Quang Sơn đều chú trọng đến việc bảo hộ nguồn nước và đất đai. Khi mới bắt đầu xây dựng Phật Quang Sơn, trên khu đất có rất nhiều gốc cây nguyên sinh, nếu có thể giữ lại được thì chúng tôi đều cố gắng không chặt bỏ. Mấy mươi năm nay, rất nhiều cây xanh đã lần lượt được trồng thêm. Tôi cũng quy định cho hàng đệ tử, không được tùy tiện chặt phá cây cối, vì tất cả những loài cây cỏ, ngoài tác dụng bảo tồn nguồn nước, giữ đất, chúng còn làm cho không khí được tươi mát trong sạch và làm đẹp cảnh quan. Đặc biệt, là thu hút nhiều loài động vật như chim, sâu, bướm, vượn cùng đến sinh sống, khiến cho người dạo đi trong không gian đó sẽ cảm thấy thoải mái, mát mẻ như đang đi dạo trong công viên, đây cũng là một việc bảo vệ môi trường.
Thân thể của con người rồi sẽ sinh bệnh, cần phải tìm đến bác sĩ để điều trị. Trái đất cũng như thân thể con người, nếu không biết giữ gìn, bảo hộ tốt nó cũng sẽ sinh bệnh. Cách để phòng chống mọi thiên tai, họa hoạn là việc biết bảo hộ đất đai và nguồn nước, trồng cây gây rừng, không được khai khẩn phá rừng tràn lan và phải cho kênh rạch được lưu thông. Chúng ta nên phát khởi lòng nhân ái, không những yêu thương bảo vệ cho bản thân, mà còn yêu thương bảo hộ cho đất nước, xã hội, xa hơn nữa là yêu quý và bảo hộ cho thế giới tự nhiên này. Nếu làm được những điều trên, thế gian mà chúng ta đang sống mới có thể tồn tại dài lâu.
4.9. Cần thanh lọc nhân tâm đạo đức con người
Phật Quang Sơn đề xướng “Phật giáo nhân gian” và tận lực thúc đẩy vận động mọi người thực hiện “Ba việc tốt”, hy vọng mỗi người đều có thể làm nhiều việc tốt, nói nhiều lời hay và tâm luôn nghĩ những điều thiện lành. Đó cũng là biến những hành động, lời nói và ý niệm làm tổn hại người khác thành hành động cụ thể, có ích cho mọi người. Ví dụ, biến lời nói sân hận ganh ghét đố kỵ thành lời nói dịu dàng êm ái; biến lời nói ngu si mê muội, thành lời nói từ bi trí tuệ, v.v. Nếu như, trong mỗi lời nói của con người ở thế gian chứa đầy tính thiện lành tốt đẹp thì thế gian mới tươi đẹp, phúc tuệ viên mãn.
Nếu muốn thanh lọc, tịnh hóa nhân tâm đạo đức của con người, trước tiên phải bắt đầu từ việc làm thanh tịnh ba nghiệp thân, khẩu, ý. Thân thanh tịnh là việc tu thân, giữ năm giới, không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm, không làm những việc sai quấy, chính là “thân luôn làm việc tốt”. Khẩu thanh tịnh là tu khẩu nghiệp, không nói dối, không nói hai lưỡi, không nói thêu dệt, không nói lời hung ác, mà nói lời từ, bi yêu thương, lời trí tuệ, lời chân thật, đây là “miệng luôn nói lời tốt đẹp”. Ý thanh tịnh là việc tu tâm, đem tâm nghi ngờ, tâm đố kỵ, tâm sân giận, v.v. những tâm không tốt ấy, sửa đổi thành tâm từ bi yêu thương, tâm lương thiện, tức là “tâm ý luôn giữ tâm niệm tốt đẹp”. Cho nên nói, việc thực hành “Ba việc tốt” sẽ giúp thanh lọc, tịnh hóa đạo đức xã hội và tư tưởng con người, qua đó tạo ra năng lượng tích cực để cải thiện xã hội.
Quốc phụ Tôn Trung Sơn đã từng nói: “Quốc gia là do con người kiến tạo, con người do tâm làm chủ”. Nếu như, nguyên thủ của một quốc gia mong muốn cho xã hội giàu mạnh, đất nước thịnh trị, nhân dân an lạc thì việc trước tiên là phải thay đổi đạo đức xã hội và tư tưởng con người bằng cách thúc đẩy chính sách lợi ích an dân, như thế mới có thể trên đề ra dưới thực hành, dùng đạo đức để giáo dục, cảm hóa lòng dân. nó Năm 1991, tôi thành lập Hiệp hội Phật giáo Quốc tế Trung Hoa tại Đài Bắc, năm tiếp theo tôi thành lập Hiệp hội Phật giáo Quốc tế Thế giới tại Los Angeles, Hoa Kỳ. Mục đích ban đầu của việc thành lập hai hiệp hội này chính là khởi xướng “Phật giáo nhân gian”, tịnh hóa đạo đức nhân tâm, xây dựng nhân gian Tịnh độ, thực hiện lý tưởng thế giới hòa bình. Thế nên từ khi Phật Quang Sơn thành lập đến nay, các hiệp hội, phân hội ở mọi nơi đều tổ chức các hoạt động có ích cho đất nước, xã hội. Ngoài việc đó, mỗi năm tôi đều có một bài diễn giảng nhằm động viên tinh thần cho các hội viên và định hướng mục tiêu trong tương lai như, vui vẻ và hòa hợp, đồng thể cộng sinh, tôn trọng và bao dung, hạnh phúc và an lạc, niềm tin vào tương lai, v.v. Tôi hy vọng rằng, nhờ thực hiện những chủ đề, lý tưởng này, mọi người sẽ có nhiều cống hiến cho quốc gia, xã hội. Tôi hy vọng, cả nhân loại đều được xã hòa bình không chiến tranh và sống an vui hạnh phúc.
Chúng ta hy vọng tín ngưỡng tôn giáo được mọi người chú trọng, vì lòng tin không chỉ có thể thanh lọc thân tâm, tăng trưởng đạo đức, thăng hoa nhân cách, còn giúp chúng ta khai mở kho báu trong tâm hồn, như lòng từ bi, niềm tin, hoan hỷ, trí tuệ, tự tại, lòng biết ân, v.v. Đó, đều là những nguồn năng lượng mà cả đời chúng ta thụ dụng không bao giờ hết.
4.10. Tất cả chúng sinh đều được lợi ích
Làm thế nào để tất cả chúng sinh đều có lợi ích? Đơn giản mà nói, là để tất cả mọi người đều có được sự tốt đẹp, sự tiện lợi và lợi ích. Lợi ích là gì? Tiện lợi là gì? Sao gọi là tốt đẹp? Chính là làm cho tất cả chúng sinh đều cảm thấy được thỏa mãn và thăng hoa, không lo lắng, mỗi ngày đều hài lòng thỏa mãn, thế gian là nơi tụ họp, sinh sống của những người tốt.
Từ khi khai sơn đến nay, Phật Quang Sơn luôn lấy “Bốn việc tặng cho” làm điều lệ, “Cho người lòng tin, cho người sự vui vẻ, cho người niềm hy vọng, cho người sự thuận tiện” làm nguyên tắc trong công việc. “Tặng cho” là một loại trao tặng, là sự cúng dường, tuy chỉ là trong một tâm niệm, nhưng trao cho người nhân duyên tốt, cho người nụ cười, cho người một viễn cảnh tươi sáng vô hạn, đó chẳng phải là điều tốt đẹp sao? Bạn xem, mỗi ngày chỉ cần chúng ta tưới một ít nước cho hoa cỏ, cây cối, nó sẽ lớn lên xanh tốt rồi tỏa hương thơm, cũng vậy, chúng ta đem đến cho người một chút Phật pháp, một chút lòng từ bi, đều sẽ đem lại nhân duyên thiện lành không thể ngờ tới.
Từ khi sinh ra, chúng ta đã tiếp nhận vô vàn sự “tặng cho” từ mọi người, nên khi chúng ta có đầy đủ năng lực, cũng nên biết làm sao để đáp đền những ân huệ đó. Trong văn Khuyến phát Bồ đề tâm Đại sư Tỉnh Am có nói rằng: “Phải thường cảm niệm ân đức của thí chủ, vì tất cả vật dụng, các bữa ăn sáng chiều, áo quần mà chúng ta mặc trên thân, thuốc thang khi chúng ta bệnh, đều là của đàn na tín thí”. Chúng ta đều là một thực thể, có quan hệ gắn kết ràng buộc thân thiết với xã hội cộng đồng, thế nên, chúng ta phải hiểu và biết đáp đền ân của xã hội, phục vụ cho xã hội.
Trong quá khứ, có rất nhiều tấm gương tốt đáng để cho thế hệ mai sau như chúng ta học tập. Ví như, ông Phạm Trọng Yêm có câu “Không vì việc thuận theo tâm ý mình mà vui, không vì bản thân thất bại mà buồn. Khi ở trên vị trí cao thì phải lo nghĩ cho dân, ở nơi biên ải xa xôi thì lo nghĩ cho an nguy đất nước”. Đại Vũ trị thủy, ba lần đi ngang nhà nhưng sợ nhỡ việc nước mà không dám ghé vào thăm nhà.
Ngày nay, có nhiều nhà hảo tâm thầm lặng làm việc thiện mà không cầu báo đáp. Như cư sĩ Triệu Văn Chính, suốt 30 năm làm việc thu gom rác, anh không chỉ quyên góp tiền trong một thời gian dài, mà còn trợ giúp nuôi dưỡng 30 trẻ em cơ nhỡ và còn quyên tặng xe chuyên dụng cho cảnh sát.
Nên nói: “Chưa thành Phật đạo thì trước hãy rộng kết thiện duyên”, việc cúng dường kỳ thực là cách thức rộng kết cần thiện duyên tốt nhất, ngoài việc thực hiện kết rộng duyên lành, đó còn là tâm lượng rộng lớn phụng hiến không có giới hạn. Cho dù là người đang cư trú tại cõi Cực lạc mỗi buổi sáng sớm cũng phải “Mỗi người đều dùng vạt áo đựng đầy những hoa thơm đi cúng dường muôn ức Phật ở trong mười phương” huống gì người trần gian chúng ta? Cho dù là cúng dường, bố thí hoặc kết duyên, chỉ cần là trao tặng cho người, đó cũng là cho chính mình.
Trong việc phụng sự không có chấp ngã sẽ giúp chúng ta thúc đẩy sự thân thiết, hài hòa giữa người với người, đồng thời cũng phá trừ đi ngã chấp của bản thân, từ đó mở rộng tâm từ bi yêu thương trong mỗi người. Nếu như, người người đều thực hiện việc rộng tu cúng dường này, tinh thần phụng sự, hiến tặng không giới hạn, anh cho tôi, tôi cho anh, tôi hy sinh cho anh, anh vì tôi phục vụ, giữa chúng ta không có tính toán, không so đo, đây không phải là cuộc sống giải thoát tự tại hay sao?
Ảnh: nguồn Internet


.jpg)

