TRÍ TUỆ XÚC CẢM TRÊN ĐƯỜNG ĐẠO - Nguyễn Thế Đăng

TRÍ TUỆ XÚC CẢM TRÊN ĐƯỜNG ĐẠO

Nguyễn Thế Đăng

-------o0o-------

Đạo Phật không chỉ là một vài con đường để đến giải thoát, giác ngộ, mà là mọi con đường trùm khắp đời sống cá nhân và xã hội. Bởi vậy nên có câu “tám vạn bốn ngàn pháp môn”. Thân tâm con người có bao nhiêu tiềm năng và khả năng đều được huy động hết. Như Mật thừa nói, “Đem tất cả những tốt lành, thiện căn, và cả những xui rủi, thất bại, bệnh tật, kể cả cái...
TRÍ TUỆ XÚC CẢM TRÊN ĐƯỜNG ĐẠO - Nguyễn Thế Đăng

 

1/ Trí tuệ xúc cảm

Từ xưa các nền văn hóa đã nhìn thấy vai trò của xúc cảm, tình cảm như một động lực để tiến bộ, tiến hóa cho cuộc sống con người. Nhưng từ khi phong trào Khai sáng thế kỷ 18 ở Tây phương với sự lên ngôi của lý trí, lý tính, người ta càng ít chú trọng đến xúc cảm, tình cảm. Sự phát triển của khoa học càng làm lu mờ động lực xúc cảm, tình cảm trong đời sống con người.

Nhưng những nhà vật lý lý thuyết tương đối và vật lý lượng tử đều là những người có tình cảm mạnh về cái Chân, cái Thiện, cái Mỹ. Họ say mê nghiên cứu, ngoài tôn giáo chính của họ, Upanishads, kinh Dịch...nghệ thuật, âm nhạc...

Từ đầu thế kỷ 20 người ta nhận thấy sự thành công ở đời thì chỉ số thông minh (Intelligence Quotient) chưa đủ, phải cần yếu tố xúc cảm, tình cảm. Chẳng hạn những người học giỏi tốt nghiệp thứ hạng rất cao ở các đại học nổi tiếng thế giới lại chỉ làm chuyên viên, còn những người chỉ tốt nghiệp hạng khá lại lãnh đạo trong kinh tế, xã hội, chính trị.

Lý thuyết khoa học về Trí tuệ cảm xúc (Emotional Intelligence) chính thức ra đời năm 1990, nhưng phải đến cuốn sách Emotional Intelligence:why it can matter more than IQ1995 của Daniel Goleman thì khái niệm Trí tuệ xúc cảm mới đi vào đời sống xã hội, kinh doanh và giáo dục trên toàn thế giới.

Bây giờ EQ đã thành một giá trị xã hội, hầu như nằm trên cửa miệng mọi người.

 

2/ Trí tuệ xúc cảm trong đời sống Đạo

Hai thành phần quan trọng nhất của con người là trí thông minh, trí tuệ (IQ) và xúc cảm, tình cảm (EQ). Sau đây chúng ta nhìn sơ lược xúc cảm, tình cảm hoạt động như thế nào, có vai trò thế nào trên con đường Đạo.

Đến với một vị thầy, không những người ta bị hấp dẫn bởi trí tuệ của vị ấy mà còn cảm xúc khi ở gần vị ấy. Cho nên khi thầy đi xa, cái còn đọng lại trong học trò không chỉ là những hiểu biết, phần nào trí tuệ của thầy, mà còn một cảm xúc, một sùng mộ (devotion), một quy kính không bao giờ tan. Thế nên, bình thường đệ tử thờ phụng hình ảnh thầy, tạc tượng thầy, lưu giữ những đồ dùng của thầy.

Trong Phật giáo Ấn Độ - Tây Tạng, Guruyoga, yoga Đạo sư, là một pháp thực hành rất quan trọng để nối kết trò với thầy.

Cho đến Đạo sư của thế giới, Đức Thích Ca, thì ban đầu, Đức Phật chỉ cho dùng những biểu tượng như cây Bồ đề, Bánh xe Pháp, dấu chân... để nhớ về ngài. Nhưng 500 năm sau Phật nhập diệt, người ta bắt đầu tạc tượng ngài để khi nhìn hay lễ lạy, người ta có đối tượng vật thể hầu biểu lộ sùng mộ, quy ngưỡng.

Lòng sùng mộ đã tạo ra nghệ thuật Phật giáo, và nghệ thuật đó đã làm khởi phát lòng sùng mộ nơi người những đời sau được xem thấy, trải nghiệm.

Tụng kinh bằng những pháp khí như chuông, mõ, trống, khánh... không chỉ là nhắc lại lời Phật dạy về trí huệ giải thoát trong kinh, mà còn gia tăng thêm năng lượng thanh tịnh bằng sự sùng mộ, tha thiết, lễ lạy.

Bốn Chỗ Động Tâm là Lâm Tỳ Ni, nơi Phật đản sanh; Bồ Đề Đạo Tràng, nơi Phật thành đạo; Lộc Uyển, nơi Phật chuyển pháp luân lần đầu; và Câu Thi Na, nơi Phật nhập Niết bàn. Gọi là Bốn Chỗ Động Tâm vì khi nhiều người đến đó, thấy những thánh tích đó thì xúc động, bật khóc, như thể một chốn linh thiêng đã nhiều đời mơ tưởng nay được gặp hoặc gặp lại.

Vì sao lại xúc động, động tâm đến thế? Vì những nơi đó chứa nhiều năng lượng thanh tịnh, khi cuộc đời người ta chạm đến nơi đó thì chảy nước mắt. Và rồi, khi lòng sùng mộ được thắp lên, người ta đi nhiễu quanh (tiếng Tạng Kora) không còn biết đến thời gian không gian thế tục.

Con đường Phật giáo chú trọng vào trí tuệ để giải thoát, giác ngộ. Đây là con đường mà nói theo Ấn giáo Là Jnana yoga, yoga trí tuệ. Một con đường quan trọng khác của văn hóa Ấn là Bhakti yoga, yoga sùng mộ, con đường của xúc cảm, tình cảm, tình yêu cái thiêng liêng. Trong đạo Phật, con đường sùng mộ được thấy rõ ràng trong Tịnh độ tông Phật A Di Đà và Tây phương Tịnh độ, ở Mật tông là Liên Hoa bộ, và trong những thực hành Mật tông, cầu nguyện, xin gia trì, ban phước, những ấn, chú, mạn đà la, Bổn tôn...

          Sùng mộ là một động lực mạnh mẽ đưa hành giả đến mục đích sau cùng của con đường.

Trong Kinh Đại Bát Nhã chuyên giảng về tánh Không đã chấm dứt bằng câu chuyện Thường Đề (có nghĩa là thường kêu khóc’), phẩm Tát Bà Đa Luân (Thường Đề) thứ 88, mang màu sắc xúc cảm, tình yêu cái thiêng liêng một cách nồng nhiệt.

Kinh mở đầu:

Bồ tát Thường Đề trước kia, lúc cầu Trí huệ ba la mật chẳng tiếc thân mạng, chẳng màng danh lợi.

Ở trong rừng vắng vẻ, ngài nghe trên không có tiếng bảo rằng:Này thiện nam tử! Ngươi từ đây đi qua phương Đông chớ nghĩ đến mỏi mệt, chớ nhớ đến ngủ nghỉ, chớ nghĩ đến ăn uống, chớ nhớ đến ngày đêm, lạnh nóng, trong ngoài”.

Cũng trong đoạn mở đầu này, ngài Thường Đề đáp lại tiếng nói trên hư không kia:

Tôi sẽ y theo lời dạy. Vì sao thế? Bởi tôi muốn vì tất cả chúng sanh mà làm ánh sáng lớn, tôi muốn tập hợp pháp của tất cả chư Phật, tôi muốn được Giác ngộ Vô thượng.

Ngay khi phát tâm cầu Trí huệ tánh Không, ngài Thường Đề đã có một lòng sùng đạo mãnh liệt, nhiều xúc cảm đối với trí huệ và đối với chúng sanh. Ngài đi tìm tánh Không không phải chỉ bằng một lý trí, trí thông minh, tỉnh táo, phân tích khách quan theo lối triết học, luận lý mà bằng một tình cảm nồng nhiệt, một tình yêu đạo pháp thậm chí đến mức điên cuồng.

Không biết Thiện tri thức chỉ dạy tánh Không ở đâu, ngài khóc. Khi không có gì cúng dường cho Bồ tát Đàm Vô Kiệt để được học tánh Không, ngài đã ra chợ bán mình, nhưng chẳng ai mua ngài lại khóc. Sau đó Trời Đế Thích thử thách ngài bằng cách muốn mua cả mạng sống, tim, máu, và tủy của ngài. Ngài đã bằng lòng, nhưng có một trưởng giả nữ can ngăn và chịu cung cấp đồ ngài cần để cúng dường.

Có đồ cúng dường rồi, ngài đi đến chỗ Bồ tát Đàm Vô Kiệt, chia đồ cúng dường làm hai phần, một phần cúng dường Kinh Bát nhã ba la mật trên đài cao đóng ấn bảy báu, một phần cúng dường Bồ tát Đàm Vô Kiệt để được nghe dạy pháp.

Sơ lược như thế cũng cho chúng ta thấy rằng từ xưa hai con đường trí tuệ tánh Không và con đường xúc cảm, động tâm luôn đi với nhau.

Xúc cảm, tình cảm đối với Thầy Tổ, với các Đại Bồ tát, với chư Phật là lòng sùng mộ, quy kính, mà sự quy y là biểu hiện cụ thể.

Lòng bi của một Bồ tát khởi phát từ xúc cảm, động tâm với chúng sanh khi thấy họ nghèo nàn, khốn khổ về mặt vật chất lẫn tâm linh.

Thế nên, Bồ tát được định nghĩa bằng Trí tuệ và Đại bi.

Sùng mộ đạo sư và sùng đạo, tình yêu dành cho Pháp, luôn luôn có trong truyền thống Phật giáo. Trong luận về tánh Không,Trung Luận, của Bồ tát Long Thọ, khởi đầu luận là tán thán Đức Phật.

Trong rất nhiều bài ca của đại hành giả Milarepa, bài nào cũng mở đầu bằng tán thán, ca ngợi thầy của ngài là đạo sư Marpa.

Chính sự sùng mộ vị thầy đã tạo nên dòng truyền thừa, không những kế thừa trí huệ của dòng mà còn kế thừa sự sùng mộ Phật, Pháp, Tăng từ những vị Tổ đầu tiên của dòng.

Con đường Bồ tát hạnh gồm có Nguyện và Hạnh. Nguyện nghiêng về xúc cảm, tình cảm và Hạnh cọng thêm ý chí thực hành nguyện ấy.

          Sùng mộ, tình cảm thiêng liêng có thể xóa tan sự chia cách giữa chủ thể và đối tượng, giữa phàm và thánh, đưa đến sự hợp nhất trong thực tại Phật tánh và thiêng liêng.

3/Lòng sùng mộ trong Kinh Hoa Nghiêm

- Kinh mang đậm tính nghệ thuật: hội họa (có thể vẽ ra được), ngôn ngữ (như: biển công đức, biển thế giới, mây cõi Phật, mây vô số thân Bồ tát, mây hạnh Bồ tát Phổ Hiền...), tất cả được diễn tả theo con số 10, nói lên sự đầy đủ, trọn vẹn.

- Phật Tỳ Lô Giá Na với cả ba thân đã hiện thân thành vũ trụ. Vũ trụ là Phật Tỳ Lô Giá Na. Điều này khiến lòng sùng mộ, tình cảm thiêng liêng và đam mê được thấy, được nghe, được biết, được đẩy lên cao nhất.

- Con đường Bồ tát từ ban đầu cho đến cuối cùng được diễn tả như một bản giao hưởng anh hùng gây phấn khích, cảm hứng như một ngọn lửa được thắp lên cho bất cứ ai chọn Bồ tát hạnh và Bồ đề tâm làm sự sống của mình. Những đoạn giảng về Bồ đề tâm do Bồ tát Di Lặc, những đoạn về lòng bi của Bồ tát như là động lực của Bồ tát hạnh, sự cầu đạo không mệt mỏi và sùng tín Thiện tri thức của đồng tử Thiện Tài, gây ra cảm xúc sôi nổi đặc biệt cho những người tụng đọc Kinh này.

- Vũ trụ Hoa Nghiêm là một vũ trụ sống động, tương tác, thâm nhập, hòa điệu với nhau, trong từng hạt bụi, trong từng khoảnh khắc. Đó là một vũ trụ sự sự vô ngại.Đây là một đời sống vô biên vô tận, với đủ mọi màu sắc, âm thanh, ánh sáng, đủ mọi loại chúng sanh thánh phàm, đủ mọi hoạt động, tạo thành một vũ trụ thiêng liêng để chiêm ngưỡng, quy kính. Và với sự sùng mộ, chiêm ngưỡng ấy làm tiêu đi cảm thức về một cái tôi, người ta đi vào vũ trụ Hoa Nghiêm, tức là Ba thân của Phật Tỳ Lô Giá Na.

Chỉ sơ lược vài điều trên cũng đủ cho thấy rằng vũ trụ Hoa Nghiêm không chỉ đến được bằng trí tuệ, mà còn bằng cảm xúc, tình cảm thiêng liêng, đam mê thánh thiện, sùng mộ bao la.

Đạo Phật không chỉ là một vài con đường để đến giải thoát, giác ngộ, mà là mọi con đường trùm khắp đời sống cá nhân và xã hội. Bởi vậy nên có câu tám vạn bốn ngàn pháp môn”. Thân tâm con người có bao nhiêu tiềm năng và khả năng đều được huy động hết. Như Mật thừa nói,Đem tất cả những tốt lành, thiện căn, và cả những xui rủi, thất bại, bệnh tật, kể cả cái chết vào Con đường”.

Vận dụng toàn bộ con người mình, toàn bộ tài nguyên tinh thần nơi mình thực hành Bồ tát hạnh, để tự giác - giác tha, sẽ làm cho đời người có ý nghĩa, kể cả ý nghĩa tối hậu là Giác ngộ, tự giác - giác tha, giác hạnh viên mãn.

 

Bài viết liên quan