BA TẦNG CỦA HIỆN HỮU VÀ BỐN GIAI ĐOẠN ĐỜI NGƯỜI - Nguyễn Thế Đăng

BA TẦNG CỦA HIỆN HỮU VÀ BỐN GIAI ĐOẠN ĐỜI NGƯỜI

Nguyễn Thế Đăng

-------o0o-------

Con người luôn luôn cảm thấy thiếu thốn, không yên tâm, thường xuyên lo âu và sợ hãi bởi vì họ chỉ sống được ở tầng giác quan và tầng ý thức. Hai tầng này lệ thuộc quá nhiều và những hoàn cảnh vật chất và xã hội bên ngoài, như gió bão, lũ lụt… như thất nghiệp, chiến tranh. Chỉ khi tiếp xúc, cảm nhận và tin vào thực tại của tầng tâm linh, người ta mới bắt đầu yên ổn.
BA TẦNG CỦA HIỆN HỮU VÀ BỐN GIAI ĐOẠN ĐỜI NGƯỜI - Nguyễn Thế Đăng

 

1/ Đời người

Con người từ lúc sanh ra để có cuộc đời mình thì phải ra khỏi lòng mẹ, ra khỏi tử cung bảo bọc an toàn của mẹ. Lòng, tử cung, phôi thai, tạng, tiếng Sanskrit là garbha. Như tathagatagarbha (Như Lai tạng, nghĩa đen là bào thai Như Lai), Bồ tát Vajragarbha (Bồ tát Kim cương tạng), Garbhadhatu mandala (mạn đà la thai tạng giới) ...

Để được sanh ra, người ta phải ra khỏi lòng mẹ, cắt cuống rốn nối liền với sự sống của mẹ, phải từ bỏ một “tạng” thế giới êm ấm, an toàn, được bảo bọc, một tạng thế giới mà sự sống không có ý thức như thực vật, như thiên nhiên.

Ra đời, là tách lìa khỏi thế giới hồn nhiên mà thụ động như cỏ cây, như thiên nhiên, để bước vào thế giới của con người, của những con người khác, của cha mẹ gia đình và sau này của xã hội. Nếu không biết sống thế nào cho đúng, người ta phải “chữa lành” sự tách lìa đầu tiên này, đây là một căn bệnh từ thượng cổ, nhưng ngày nay với văn minh tiến như vũ bão, căn bệnh ấy được thấy qua những triệu chứng rõ ràng hơn bao giờ.

Rồi em bé ấy lớn lên, các giác quan phát triển đầy đủ, biết các màu sắc, nhưng chưa biết phân biệt và ưa thích màu nào hơn màu nào, biết nghe âm thanh nhưng chưa biết bài ca này vui hay buồn để ưa thích theo. Sự phát triển năm giác quan là cần thiết để sống trong thế giới được gọi là ‘vật chất’.

Đây là thời kỳ thơ ngây, tương đương với thời kỳ “sơ khai, mông muội” của nhân loại. Đứa trẻ hạnh phúc như ở trong “vườn địa đàng”, chưa bước ra với thế giới, với người khác, với xã hội.

Cho đến khoảng 10 tuổi, ý thức bắt đầu thành hình và phát triển. Ý thức là cái biết có phân biệt: đây là cha mẹ của tôi, kia là cha mẹ của bạn, đây là sách vở của tôi, thành tích học vấn của tôi, khác với những cái của các bạn khác. Ý thức là chỉ số thông minh, chỉ số cảm xúc, và những khả năng khác, lưu giữ những kinh nghiệm tốt xấu, biết phân biệt và chọn lựa, biết thương biết ghét, biết lấy biết bỏ...

Ý thức phân biệt tạo ra một “cái tôi” và rồi “cái của tôi”, và cho đến suốt đời cái tôi và ý thức phân biệt nuôi dưỡng lẫn nhau, sinh thành lẫn nhau, thậm chí xung khắc lẫn nhau để tạo thành một con người.

Thêm nữa, ý thức phân biệt còn tạo ra danh từ, câu chữ, ngôn ngữ để xác định sự vật. Sự đặt tên này là cần thiết, nhưng cũng củng cố thêm phân biệt chia tách.

Ý thức phân biệt và cái tôi là sự tách lìa thứ hai, tách lìa khỏi thế giới vô tư của trẻ em để thành một con người, sống trong thế giới và những con người khác. Nếu không có cái tôi và năng lực ý thức phân biệt của nó, con người bình thường vẫn chưa hoàn thành, y chỉ là một gã khờ hoặc bị bệnh tâm thần.

Cho nên cần phải trải qua và hoàn thành con người cái tôi và ý thức phân biệt để có thể sống trong xã hội một cách lành mạnh, và để có thể vượt lên cao hơn nữa hầu tiếp cận với con người tâm linh của mình.

2/ Những khủng hoảng

Đời người là một công cuộc tiến hóa, tiến hóa biện chứng. Bước hiện tại của tôi là kết quả của những bước trước kia, và bây giờ muốn bước tiếp, tôi phải bỏ đi một ít cái không cần thiết, dư thừa, gây chướng ngại đồng thời vẫn mang theo những ‘tinh túy’ (essence) đã chưng cất được. Biện chứng là vượt qua được một thử thách (phản đề) đối với hiện trạng của tôi (chánh đề) để thành tựu một tổng hợp đề mới, thống nhất dù tạm thời, những mâu thuẫn cũ. Con người tiến hóa bằng những quá trình biện chứng như vậy.

Chỉ nói riêng về việc làm người, cho đến tuổi trưởng thành ở đời là khoảng 30 tuổi, con người phải trải qua nhiều thử thách, mâu thuẫn, những khó khăn mà nếu không được hướng dẫn thì sẽ mắc những bệnh như cô đơn, sợ đám đông, chán đời, trầm cảm, thậm chí hung hăng, tội phạm... nghĩa là hao hụt năng lượng sống một cách vô ích và tai hại.

Tóm lại, để thành một người trong thế giới, trong xã hội, người ta phải trải qua sự tách lìa đầu tiên, từ lòng mẹ để thành một đứa bé sống trong một thế giới giác quan và ý thức mơ màng chưa phát triển.

Được sinh ra, tách lìa lòng mẹ để chập chững bước vào thế giới, một thế giới xa lạ chưa từng quen biết là một cú sốc đối với một đứa trẻ. Rất nhiều đứa trẻ khi lần đầu tiên đến lớp mẫu giáo, xa cha mẹ, đã khóc lóc, sợ hãi. Vào một phòng khám thấy những dụng cụ y khoa bèn sợ hãi.

Cho nên, phải tập cho trẻ quen dần với môi trường, những nhân vật mới; không gây ra những chấn thương sẽ chìm sâu vào tiềm thức khiến trẻ bị thương tật tâm thức cả đời. Tình thương yêu, chăm sóc của gia đình, của thầy cô là điều rất quan trọng để trẻ bắt đầu ‘tập’ sống.

Đến thời trung học, cùng với ý thức phân biệt và ngôn ngữ mà xã hội cung cấp, con người bước vào sự tách lìa thứ hai, tách lìa thời kỳ ngây thơ, vô tư không biết gì để phải tự xác định mình là một cá nhân phải tự sống, tự suy nghĩ, tự vươn lên, tự tranh đấu cho những hoài bão, những hy vọng của mình và tự chịu đựng để vượt qua những thất bại của mình.

Chính thời kỳ mới lớn này khủng hoảng thường xuyên hơn khi tìm cách khẳng định mình là một cá nhân, một cái tôi và cái tôi độc lập, khác biệt. Khủng hoảng vì giới tính, vì tại sao tôi không giỏi toán bằng các bạn, mặt mày tôi coi có được không, có hấp dẫn với người khác phái không? Tại sao gia đình tôi không giàu như anh X, anh Y; Tại sao tôi không có nhiều năng khiếu? Từ đó là những khái niệm hơn thua, hay dở, may mắn, xui rủi, thành công thất bại… tạo cho nhiều mặc cảm, những mặc cảm tự ti mang lấy cho đến suốt đời.

Đó là chưa kể những khủng hoảng lớn của xã hội tác động đến cá nhân: thiên tai, dịch bệnh, và chiến tranh…

Ngày nay với nền giáo dục tiến bộ, hiểu biết thiếu niên, thanh niên hơn, với đủ loại sách ‘học làm người’, ‘tự chữa lành’ (self help), tâm lý học tích cực, phát triển bản thân, kỹ năng sống… người ta có thể sống một cách lành mạnh, chịu đựng được những thất bại, và có được niềm vui sống. Người ta có thể giải quyết được một số vấn đề của cá nhân và tương quan giữa cá nhân và xã hội để sống tốt hơn, không những nhờ tự mình mà còn nhờ môi trường xã hội “chữa lành” cho.

Nếu không biết sống trong xã hội, thì điều đó có thể làm cho người ta bị tổn thương nhiều hơn, cô đơn và trầm cảm hơn. Còn nếu biết sống, đó là một môi trường để chữa lành và trưởng thành.

 

3/ Thống nhất với cái toàn thể

Gia đình và xã hội có thể chữa lành cho những khủng hoảng do bị tách lìa, không thể nối kết với thế giới bên ngoài. Sự nối kết với thế giới vật lý bằng tầng những giác quan, và với xã hội, văn hóa và văn minh bằng tầng ý thức có thể thành công, rất thành công. Nhưng rồi người ta vẫn thấy thiếu thốn, vẫn tìm kiếm tiếp, cần giàu có hơn, nhiều tình yêu hơn, nhiều quyền lực hơn, vòng tròn quen biết xã hội càng mở rộng hơn, nhưng người ta vẫn thấy thiếu thốn, vẫn chẳng thỏa mãn hài lòng.

Tại sao thế? Vì hai tầng các giác quan và tầng ý thức đều có giới hạn, cho nên sự nối kết của hai tầng ấy với thế giới, với người khác cũng giới hạn, không thỏa mãn được nguyện vọng sâu xa và rộng lớn của con người là có thể nối kết với tất cả những gì hiện hữu và không hiện hữu, những gì thấy được và những gì không thấy được.

Từ xa xưa, từ khi có con người, người ta đã có một đam mê thầm kín là nối kết được với Tất Cả. Thế nên danh từ tôn giáo, religion, nguyên nghĩa của nó là “nối kết trở lại” (re: trở lại; ligare: kết nối).

Nối kết trở lại với cái gì? Có rất nhiều danh từ để gọi cái đó, tùy theo mỗi nền văn hóa. Ở đây chỉ nêu ra vài từ: thực tại tối hậu, thực tại hiện tiền, khuôn mặt xưa nay của mỗi người, bản tâm bất tử, ‘linh hồn’ bất tử, Phật của chính mình ở nơi chính mình, “thiên nhân hợp nhất”, “ngươi là Cái Đó”, “Con với Cha là một”, “thiên, địa, nhân nhất thể”…

Nối kết được với con người thật của mình, với Phật Chính Mình (Tự kỷ Phật) là hướng đi và mục đích của mọi tôn giáo, mọi nền văn hóa.

Không nối kết được với thực tại toàn thể này, con người vẫn mãi cảm thấy thiếu thốn, vẫn bị thất lạc trong một thế giới thay đổi liên tục, không giờ phút nào yên nghỉ, vẫn luôn lo sợ vì những bất trắc của cuộc đời không biết xảy ra lúc nào, và không gượng dậy được khi thất bại.

Nối kết được với thực tại ấy nghĩa là nối kết với tầng tâm linh ở nơi chính mình. Con người luôn luôn cảm thấy thiếu thốn, không yên tâm, thường xuyên lo âu và sợ hãi bởi vì họ chỉ sống được ở tầng giác quan và tầng ý thức. Hai tầng này lệ thuộc quá nhiều và những hoàn cảnh vật chất và xã hội bên ngoài, như gió bão, lũ lụt… như thất nghiệp, chiến tranh.

Chỉ khi tiếp xúc, cảm nhận và tin vào thực tại của tầng tâm linh, người ta mới bắt đầu yên ổn.

Kinh nghiệm về tầng tâm linh có những cấp độ. Ban đầu, ở tuổi thiếu niên, qua sự dạy bảo của cha mẹ, của sách, của các vị thầy, người ta có niềm tin là có cái Đó. Rồi bằng học hỏi (Văn), tư duy (), và thực hành (Tu), tới một lúc nào khi bớt những che chướng của lo âu, bất an phiền não, khổ đau, người ta thấy ra cái Đó. Khi thấy Nó, người ta tiếp tục sống trong Đó, và người ta biết Đó là vườn Địa đàng, là Thiên đàng, là Niết bàn an lạc, là cõi thanh tịnh Cực lạc, là tịnh quang con hợp nhất với tịnh quang mẹ, là thống nhất với Như Lai tạng…tùy theo muốn gọi nó là gì cũng được, muốn gán cho nó những phẩm tính gì mà ý thức có thể nghĩ ra, thì nó cũng không vì những đặt tên ấy mà biến đổi, thậm chí không vì những phiền não khổ đau của chúng ta mà biến đổi.

Thấy và sống được trong tầng tâm linh, con người chúng ta mới đầy đủ, mới không ‘thiểu năng’, ‘tàn tật’, và mới biết hạnh phúc, hạnh phúc trường cửu là có thật.

Khi chia ra hữu thể con người làm ba tầng, đó là để dễ hiểu. Thật ra ba tầng này xen lẫn thâm nhập vào nhau. Chẳng hạn trong tầng các giác quan có tầng ý thức, và tầng tâm linh hòa lẫn thâm nhập hai tầng dưới. Thế nên một con người đạt đến tầng tâm linh thì người ấy vẫn sống với các giác quan và ý thức như một con người bình thường của thế giới này. Có điều người ấy đã chuyển hóa thế giới các giác quan và ý thức thành một thế giới tâm linh. Chuyển hóa chứ không loại bỏ.

Khi đạt đến tầng tâm linh, người ta bắt đầu biết rằng tầng tâm linh chính là Nền tảng (ground, TT. gzhi) cho sự phát sanh và xuất hiện của hai tầng ý thức và các giác quan. Nền tảng này chính là Nhà mà con người đã lạc mất từ khi sinh ra và lớn lên. Trong Kinh Pháp Hoa có nói “chàng cùng tử trở về nhà”. Kinh Thánh cũng có câu chuyện “đứa con đi hoang trở về nhà”.

Đạt đến tầng tâm linh, người ta luôn luôn thấy mình sống trong Nền tảng, sống trong Nhà và các giác quan và ý thức không còn làm người ta lạc lỏng, mà chúng là những biểu hiện kỳ diệu của tầng tâm linh Nền tảng. Khi ấy người ta thấy đời sống bình thường, gia đình, nghề nghiệp, công ăn việc làm và mọi hoạt động xã hội đều là sự biểu lộ của tầng tâm linh, biểu lộ của Đạo. Có ở nhà người ta mới có thể ra đời làm lợi cho xã hội, cho thế giới về cả ba mặt vật chất (các giác quan), ý thức và tâm linh.

4/ Văn hóa là dạy cho con người có đủ ba thành phần và sống trong bốn giai đoạn

Một cuộc sống đầy đủ là sống được ở cả ba tầng giác quan, ý thức, và tâm linh. Cuộc đời con người được chia làm 4 giai đoạn, theo truyền thống xưa của Ấn Độ và Trung Hoa, và sự phân chia ấy là hợp lý theo sự phát triển, chậm lại và suy tàn của thân tâm con người.

Sự phân chia làm 4 thời kỳ này là tổng quát, còn mỗi thời kỳ dài ngắn khác nhau, mạnh yếu khác nhau thế nào là tùy theo từng người, từng cuộc đời riêng, với những khả năng và khuynh hướng riêng.

1. Từ 12 đến 25 tuổi: thời kỳ mùa xuân, từ trẻ em phát triển thành thanh niên, người lớn.

Vào cấp 2 trung học, ngoài học tập để thành người, để có một nghề nghiệp cho cuộc đời tương lai, thiếu niên còn phải được dạy có một tầng tâm linh. Sự dạy bảo này do gia đình, sách đọc và do những vị thầy tinh thần.

Qua những thông tin về tầng tâm linh, người thiếu niên có niềm tin, và lớn lên nữa, từ cấp 3 trung học, có thể tham gia những sinh hoạt tôn giáo như biết cầu nguyện, ngồi thiền, đọc kinh, tụng kinh, nghe giảng đạo…

Đây là sự bắt đầu nối kết với tâm linh qua niềm tin và những thực hành sơ bộ.

2. Từ 25 tuổi đến 50 tuổi: tương đương với mùa hạ, thời kỳ hoạt động trong đời. Người thanh niên ấy ‘lập nghiệp’, ‘lập gia đình’, hoặc có thể sống độc thân để dâng trọn đời mình cho tâm linh, cho đạo. Dầu có cuộc sống thế nào, sự nối kết với tâm linh phải mỗi ngày một mạnh mẽ hơn, sâu rộng hơn. Chính đời sống tâm linh khiến người ta có thể hiểu sâu sắc hơn đời sống xã hội và những kinh nghiệm thu hoạch được từ đó, bởi vì chúng là những biểu hiện của đời sống tâm linh trên bình diện các giác quan và ý thức.

Nếu ở đời sống gia đình, người ấy phải hướng dẫn gia đình trong một tầm nhìn tâm linh, phải biết làm những hoạt động tâm linh nhỏ trong gia đình. Mỗi ông chủ gia đình cần phải ‘trụ trì’ gia đình mình trong ngôi nhà của mình, phải biết cầu nguyện, cầu an, hộ niệm… Và dầu là ông chủ gia đình, người ấy luôn luôn có những vị thầy tâm linh để học hỏi, tiến bộ.

Dầu sống trong đời sống gia đình và xã hội, người ấy vẫn nối kết với đời sống tâm linh, xem đời sống hàng ngày, công ăn việc làm, đối xử với vợ chồng con cái đều là môi trường để thể hiện tính tâm linh đã được phần nào đánh thức nơi mình. Đời sống xã hội dần dần hòa nhập với đời sống tâm linh.

3. Từ 50 tuổi đến 70 tuổi, là mùa thu cuộc đời (về hưu cũng trong độ tuổi này). Mùa thu là mùa gặt, mùa trái chín, người ta đã đủ kinh nghiệm sống, kinh nghiệm nghề nghiệp và ít nhiều kinh nghiệm tâm linh, cách sống tâm linh giữa cuộc đời, để truyền lại cho thế hệ sau.

Đây là thời kỳ đỉnh cao của một con người, sự hoàn thành cao nhất về tất cả mọi mặt của một kiếp người, vì sau đó là tuổi già, sức khỏe thân thể đi xuống, năng lực tâm trí đi xuống.

4. Từ 70 tuổi trở lên. Đây là mùa đông của cuộc đời, không thể phát khởi, bắt đầu cái gì mới. Chỉ giữ gìn, cầm cự, ít có thể mọc lá, nở hoa, phát triển như ba mùa trước.

Người ta chuẩn bị làm nốt những việc cuối cùng của đời này, vẫn truyền đạt lại – vì đây là bổn phận và trách nhiệm – cho đời những gì mình đã học được, đã thành công được, cảnh báo những thất bại mình đã trải qua.

Những nợ nần đã trả sạch, những thành quả tâm linh gói ghém lại mang đi, người ta sẵn sàng cho hơi thở cuối cùng để sang đời khác. Và theo đúng luật nhân quả, trong đời này người ta ở cấp độ tâm linh nào, người ta ra đi ở cấp độ tâm linh ấy; đến nơi nào khác hay trở lại trái đất này cũng với cấp độ tâm linh ấy.

Có một lập trình, một sơ đồ, một thời khóa biểu cho cuộc đời mình như vậy, người ta sẽ không mất thời giờ cho những ảo tưởng, cho những mộng tưởng không thành, không mất thì giờ cho những việc làm dư thừa, vô ích, nhiều khi còn làm tai hại, hư hỏng đời mình.

Một cuộc đời lợi mình – lợi người như vậy là một cuộc đời đáng sống, một cuộc đời nhiều hạnh phúc vì có thể tránh và chiến thắng được khổ đau. Càng hạnh phúc hơn, càng tự tin (confidence) hơn, khi người ấy cũng giúp được phần nào những người khác tránh được và chiến thắng được khổ đau để biết sống và có hạnh phúc trường cửu.

-------o0o-------

Bài viết liên quan