BÌNH GIẢNG VỀ PHỔ KHUYẾN TỌA THIỀN NGHI - Trích: “Ngồi Không – Những tác phẩm thiết yếu của thực hành Thiền Chỉ Quán đả tọa”

BÌNH GIẢNG VỀ

PHỔ KHUYẾN TỌA THIỀN NGHI

Hakuyu Taizan Maezumi – Tiền Giác Bác Hùng

(1931-1995)

Trích: “Ngồi Không – Những tác phẩm thiết yếu của thực hành Thiền Chỉ Quán đả tọa” - John Daido Loori

Essential Writings On The Zen Practice Of Shikantaza

Việt ngữ: Ban dịch thuật Thiện Tri Thức

Tuyển dịch từ: The Art Of Just Sitting

Nhà Xuất Bản Thời Đại, 2010

--o0o--

Tất cả chúng ta đi vào Thiền để tìm ra chân ngã của mình, ý nghĩa đích thực của đời sống và cái chết.
BÌNH GIẢNG VỀ PHỔ KHUYẾN TỌA THIỀN NGHI - Trích: “Ngồi Không – Những tác phẩm thiết yếu của thực hành Thiền Chỉ Quán đả tọa”

 

Đầu đề bản văn của Đạo Nguyên, Phổ khuyến tọa thiền nghi, có thể dịch ra một số cách. Một số dịch giả dịch là Khuyến khích phổ quát những nguyên lý của ngồi thiền. Ở đây nó được dịch là những nguyên lý của ngồi thiền. Trước hết cần hiểu rằng Đạo Nguyên không chỉ cho một bài thuyết pháp về hành ngồi thiền như thế nào, mà thực ra ngài yêu cầu mọi người đều làm việc đó. Hơn nữa, ngài dùng từ phổ khuyến để nói đến tính phổ quát của những nguyên lý này, cho tất cả không trừ một ai. Dĩ nhiên, khi chúng ta ngồi như thế nào, chúng ta nói “chỉ ngồi”. Nhưng chỉ xếp đặt thân trong một tư thế ngồi thì rất không đủ. Zazennghĩa đen là “ngồi thiền”. Và khởi lên câu hỏi “Thiền là cái gì?”. Sự thực hành của chúng ta cần phải là ngồi thiền thực sự, và chúng ta phải làm rõ điều này. Nhưng ngồi thiền thì ai làm cũng được. Để ngồi thiền, người ta không cần cái gì khác hơn thân này. Cái này hoàn toàn đủ.

Khi Đạo Nguyên từ Trung Hoa trở về, ngài không hài lòng lắm với loại thực hành Thiền đang thịnh hành ở Nhật. Ngài cảm thấy nó kém chính xác, kém sức sống như nó cần có. Chẳng hạn, bản thân ngài Vinh Tây phối hợp những nguyên lý của Thiền với những giáo lý của Thiên Thai tông và Chân Ngôn tông. Thế nên nó không thực sự là Thiền như đã được dạy và thực hành.

Nhưng Đạo Nguyên, sau đại ngộ với Đại sư Thiên Đồng Như Tịnh, tin chắc rằng chỉ riêng ngồi thiền cần được áp dụng. Khi viết bài này, Đạo Nguyên không chỉ muốn cổ vũ sự thực hành ngồi thiền, mà còn khuyến khích người ta hành loại ngồi thiền chân chánh mà chính ngài đã kinh nghiệm và thấu hiểu sâu sắc.

Ngài nói điều quan trọng nhất một cách tức thời, trong hai câu đầu hay trong đoạn đầu, đó là tính cách viết của Đạo Nguyên. Lão sư Yasutani một lần đã nói với tôi rằng lão sư Harada thường nhấn mạnh ý nghĩa những lời mở đầu của Phổ khuyến tọa thiền nghi. “Tazunuru ni sore...”, “Sau khi tìm kiếm triệt để...”

Chúng ta hãy khảo sát trọn Phổ khuyến tọa thiền nghi.

Nói một cách căn bản, nền tảng của Đạo là toả khắp trọn vẹn.

Ý nghĩa của đoạn mở đầu này, cùng với lời mở tôi vừa đề cập ở trên, thì đại khái như thế này: “Sau khi triệt để tìm kiếm chân lý, Đạo Nguyên chứng ngộ rằng bản tánh sâu xa của Đạo vốn là viên mãn và toàn khắp”. Bản tánh ở đây được dịch như một danh từ. Chúng ta có thể đọc “bản tánh của Đạo” là “Đạo nền tảng”. Nó là nền tảng vì nó phổ quát; nó là toàn khắp; nó là trọn vẹn. Nó là tánh Không, Phật tánh.

Nó là đời sống của chúng ta!

Chúng ta có thể nói Đạo là toả khắp một cách hoàn hảo, nhưng có lẽ “tự do” thì rõ ràng hơn. Với tiếng Nhật “toả khắp một cách hoàn hảo” cũng có nghĩa “tác động vô ngại” và tác động này là hoạt động và tích cực. Trước khi chúng ta đi xa hơn, hãy để tôi giải thích hai mặt của sự thực hành và của đời sống chúng ta: cái nội tại, hay cái tuyệt đối và cái kinh nghiệm hay cái tương đối. Cái nội tại ám chỉ một thực tại tối hậu; cách thế sự vật thực sự là gì, dù chúng ta có ý thức đến nó hay không. Cái kinh nghiệm hay cấp độ tương đối ám chỉ cái chúng ta kinh nghiệm là “thật” một cách trực tiếp và có ý thức.

Thế nên xem đoạn này từ bối cảnh kinh nghiệm, nếu chúng ta không thực hành ngồi thiền và thực hành Đạo một cách đúng đắn, thì chúng ta mất điểm cốt yếu. Như vậy chúng ta tạo ra một hố sâu giữa chính mình và cái bên ngoài – và chúng ta không thể nhận ra Đạo.

Nhưng khi khảo sát từ bối cảnh nội tại, chỉ hiện hữu như chúng ta đang là thì hoàn hảo, viên mãn, trọn vẹn. Không có gì thiếu, không có gì thừa. Cũng không phải thiếu và thừa là đồng nhất. Mỗi chúng ta là khác biệt, nhưng hoàn hảo và trọn vẹn.

Tất cả chúng ta đi vào Thiền để tìm ra chân ngã của mình, ý nghĩa đích thực của đời sống và cái chết. Nhưng ở đây nói, “nói một cách căn bản, nền tảng của Đạo là toả khắp trọn vẹn...”. Đạo là gì? Trong từ ngữ kỹ thuật, nó là Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Trong tiếng Trung Hoa, nó được dịch là “Đạo tối thượng”, “Đạo vô song” hay “Trí huệ toàn hảo”, và có nghĩa là giác ngộ. Giác ngộ là từ đồng nghĩa với đạo. Đạo vô thượng, sự giác ngộ trọn vốn là hoàn hảo tự thân nó.

Và rồi chúng ta hỏi, “Cái gì là trí huệ? Cái gì là Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác?”. Nó chính là đời sống chúng ta. Chúng ta không chỉ có trí huệ ấy; chúng ta thường trực sử dụng nó. Khi trời lạnh, chúng ta mặc thêm áo. Khi trời nóng, chúng ta cởi bớt áo, khi đói, chúng ta ăn. Khi buồn chúng ta khóc. Khi vui, chúng ta cười. Đó là trí huệ hoàn hảo, trí huệ Ba-la-mật.

Và trí huệ hoàn hảo này không chỉ ở con người, mà ở mọi sự mọi vật. Chim bay, chó chạy, núi cao, lũng thấp. Tất cả đều là trí huệ toàn hảo. Bất kể chúng ta có chứng ngộ nó hay không, chúng ta luôn luôn ở giữa Đạo. Hay nói nghiêm ngặt hơn, chúng ta không là gì khác hơn Đạo.

Dĩ nhiên, luôn luôn có những nhân và duyên khiến chúng ta là thế này mà không là thế nọ. Luật nhân quả áp dụng cho mọi người, không ai tránh thoát được. Thế nên chìa khoá là làm sao chứng ngộ Đạo. Đạo này rốt cuộc không là gì khác chúng ta. Và chứng ngộ rằng Đạo là toàn khắp, hoàn hảo và trọn vẹn, chúng ta đâu còn lo gì?

Trong tông Tào Động, có sự nhấn mạnh nhiều hơn vào sự vốn chứng ngộ hay giác ngộ căn bản và nền tảng, nó không là gì khác hơn chính đời sống chúng ta. Bấy giờ điều chúng ta cần làm là chăm sóc nó và không làm nó ô nhiễm hay hư hỏng. Bây giờ bất cứ điều gì chúng ta làm đều trở thành hành vi của Phật (Phật sự).

Đó là điều dòng đầu ám chỉ khi nói: “Nói một cách căn bản, nền tảng của Đạo là toả khắp trọn vẹn; làm sao nó có thể phụ thuộc vào thực hành và xác chứng?”.

Thừa của chư tổ vốn không hạn hẹp;

Tại sao chúng ta lại phải cần tiêu phí nỗ lực kéo dài?

Thừa ở đây là bản tánh sâu thẳm của đời sống, nó vốn hoàn toàn tự do, không lệ thuộc hay hạn hẹp. Thừa ấy không gì khác hơn là đời sống của chúng ta, và như vậy đời sống chúng ta cũng vốn tự do, không hạn hẹp. Dĩ nhiên, chừng nào chúng ta còn sống, chúng ta phải sống trong những điều kiện nào đó, mà trong một nghĩa, là một sự giới hạn. Nhưng trong giới hạn luôn luôn có tự do. Dù bạn đi đâu hay làm gì, cách nào đời sống của bạn cũng bị hạn hẹp. Chớ nhìn vào những hoàn cảnh giới hạn để tìm kiếm tự do của bạn. Bạn sẽ không tìm ra nó. Bạn luôn luôn có thể tìm thấy tự do bên trong giới hạn.

Chắc chắn Toàn thể Hiện thể thì vượt xa khỏi nhiễm Ô; ai có thể tin vào một phương pháp để chùi sạch nó? Chúng ta có đủ mọi loại nhiễm ô, nhưng nói chung nó vượt ra khỏi những nhiễm ô. Riêng điều này là một công án tuyệt vời!

Toàn thể Hiện thể.

Cái gì là Toàn thể Hiện thể? Lần nữa, nó không gì khác hơn tự thân của mỗi chúng ta. Mỗi chúng ta phải vượt khỏi mọi loại nhiễm ô. Không cần phải lau chùi bụi nhiễm ô như vậy. Không kỳ diệu sao?

Có một đoạn nổi tiếng trong Pháp Bảo Đàn Kinh, bài kệ của Lục Tổ Huệ Năng và sư Thần Tú.

Bài kệ của ngài Thần Tú là:

Thân là cây bồ đề

Tâm là đài gương sáng

Thường siêng lau chùi chúng

Chớ để bám bụi trần.

Và bài kệ của Lục tổ đáp lại:

Vốn không có (cây) bồ đề

Cũng không đài gương sáng

Xưa nay không một vật

Chỗ nào bám bụi trần?

Bạn thấy không? Không phải là chuyện phủi bụi hay làm gương. Chân ngã của bạn, bản tánh của bạn, Phật tánh – đó là Đạo. Đạo, toàn thể hiện thể, và trọn vẹn, toàn thiện, tự do, toàn khắp.

Nó chưa từng lìa khỏi chính nơi này; vậy thì ích gì khi hành hương để thực hành nó?

Điều này rất quan trọng: Đạo luôn luôn ở đây; luôn luôn ngay ở đây và ngay bây giờ. Luôn luôn, bạn có đi đâu, bạn có ở đâu, nó cũng ngay ở đây và ngay bây giờ, trọn vẹn, tự do, toàn khắp. Không kỳ diệu sao? Đó là đời sống của chúng ta. Chỉ hãy là như vậy, hãy là như vậy. Chớ làm ô nhiễm nó hay làm dơ khoảnh khắc này, ngay ở đây và ngay bây giờ.

Và tuy nhiên nếu có một sợi tóc phân biệt, khoảng cách thì như trời xa đất ...

Nghĩa là hiện hữu cá nhân hay hiện thể của chúng ta thì tuyệt đối và rõ ràng như mũi tên trên mặt bạn. Mỗi chúng ta thì hoàn hảo và tự do. Đây là một xác nhận rất mạnh mẽ đời sống chúng ta.

Điểm then chốt của sự thực hành của chúng ta là không phải trở thành cái gì khác hơn cái mà chúng ta đã vốn là, như một vị Phật hay một người giác ngộ, mà chứng ngộ bày rõ biết sự kiện rằng chúng ta vốn bẩm sinh nội tại là Đạo, tự do và trọn vẹn. Nếu chúng ta thực hành để trở thành cái gì khác, chúng ta chỉ đặt một cái đầu khác trên cái đầu của chúng ta, làm cho chúng ta thành con ma. Một cái đầu đích thật là đủ rồi!

Thế thì, làm sao chúng ta chứng ngộ hay thấu hiểu rằng đời sống chúng ta thì trọn vẹn và tự do? Hay nếu chúng ta chứng ngộ điều đó, thì chúng ta chứng ngộ điểm đó rõ ràng thế nào? Làm rõ vấn đề này là lý do tại sao chúng ta thực hành.

Đạo Nguyên nói, “Học Đạo giác ngộ là học chính mình. Và học chính mình là quên chính mình”. Quên chính mình không phải là tạo ra bất kỳ một khoảng cách nào giữa chính mình với Đạo. Bấy giờ cái gì tạo ra kinh nghiệm của chúng ta về sự ngăn cách?

Cái tạo ra ngăn cách luôn luôn là cái thức quy ngã giới hạn của chúng ta. Hoàn toàn không có gì sai lầm trong thức. Thức là một tác dụng đơn giản, thuần tuý của thân tâm, và không phải là một cái gì đúng hay sai, vấn nạn hay không vấn nạn. Nhưng rắc rối của chúng ta là chúng ta đã cho tác dụng thức của mình quá nhiều giá trị, quá nhiều quyền hành. Chúng ta nghĩ rằng chúng ta có thể hình dung ra mọi sự bằng thông minh, bằng suy nghĩ, bằng những ý niệm và những tư tưởng của chúng ta. Đó là tại sao chúng ta bị rắc rối khốn khổ.

Thế nên, khi thực hành ngồi thiền, hãy dẹp những ý niệm và những tiên kiến này. Hãy dừng lại toàn bộ tiến trình phân tích và tạo thành ý niệm.

Khi một chút thích hay không thích nhỏ nhất sanh khởi, tất cả bị mờ rối và tâm bị lạc mất.

Khi bạn bắt đầu có những ý tưởng thích hay ghét, đúng hay sai, tốt hay xấu, ngộ hay mê, bấy giờ bạn đánh mất tâm. Tâm này lại đồng nghĩa với Đạo.

Dù các ông hãnh diện vì cái hiểu của mình và no nê với cái thấy, tìm ra trí huệ tỏ biết chỉ trong một cái nhìn dù các ông đạt Đạo và rõ tâm, sanh ra tinh thần xông lên tới tận trời, thì các ông chỉ mới quanh quẩn nơi ngoại vi cổng vào và còn thiếu cái gì đó của con đường cốt tử của giải thoát.

Dù đạt ngộ rất rõ ràng, sự đạt đó vẫn chỉ là một sự bắt đầu. Có một Thiền ngữ, “Đầu đã lọt qua, nhưng thân còn kẹt lại”. Đạt ngộ, thị kiến rõ ràng, trí huệ thấy toàn thể thế giới không gì ngoài chính mình, một cái hiểu như vậy bắt đầu. Và chừng nào bạn còn bị kẹt ở mức độ này, bạn đã rơi vào biển thuốc độc và không bao giờ có thể tự giải thoát.

Hãy xem câu chuyện Bạch Ẩn, ngài khi hai mươi bốn tuổi đạt được một cái ngộ rất rõ ràng khi nghe tiếng chuông chùa buổi chiều. Một cảm giác vui thích khủng khiếp và ý nghĩ không có ai trong vòng một trăm năm qua đã đạt một cái ngộ rõ ràng như vậy đã chiếm giữ lấy ngài. Về lâu sau, nghĩ lại thời trẻ, ngài viết về kinh nghiệm này “tự phụ và kiêu hãnh nổi lên như sóng biển”. Về sau, ngài gặp Shoju Roshi, vị này làm ngài hoàn toàn xẹp xuống và giúp ngài đạt một chứng ngộ còn rõ ràng hơn.

Chúng ta phải thận trọng về việc chúng ta tiến bộ như thế nào trong thực hành. Đạo Nguyên cảnh cáo việc đạt một chứng ngộ nhỏ và sớm thỏa mãn và tự phụ. Khi làm vậy, chúng ta tự cột trói mình thay vì giải thoát.

Dù trường hợp của Đức Thích-ca, bẩm sinh thông tuệ, chúng ta có thể thấy dấu vết của sáu năm ngồi thẳng.

Đức Phật được sinh ra trong hoàng tộc, xuất sắc trong mọi thứ học tập, văn chương và thể thao. Dù tài nghệ phi thường và tính khí vĩ đại, Ngài vẫn có sáu năm chiến đấu. Thế thì chúng ta cần thực hành khó nhọc.

Theo một cách điều này có vẻ mâu thuẫn, vì Đạo Nguyên đã viết rằng thật ra đây không phải là một vấn đề thực hành hay giác ngộ. Nếu như vậy, thì tại sao chúng ta phải thực hành? Nhưng chúng ta lại phải trở về với hai phương diện của sự thực hành: Từ bối cảnh nội tại, đi nhiên chúng ta nói rằng tự nền tảng chúng ta đều là những vị Phật và không cần thứ gì như thực hành hay giác ngộ, bởi vì cách nào thì đó cũng là chân tánh của chúng ta. Nhưng vấn đề là chúng ta chỉ tin điều đó một cách lý thuyết; chúng ta không biết điều đó một cách trực tiếp, mắt thấy tai nghe. Trực tiếp ý thức điều đó và biết nó trọn vẹn là lý do cho chúng ta thực hành.

...và trong trường hợp của con người ở Thiếu Lâm, dù ngài có tâm ấn, chúng ta vẫn nghe tiếng tâm chín năm ngồi đối diện với vách tường. Khi những người xưa còn phải như vậy, người ngày nay sao có thể không cần cầu Dao?

Cái gì là tâm ấn? Nó là một từ đồng nghĩa với Đạo và việc tâm truyền tâm. Trong một nghĩa, không có cái gì để được truyền. Chứng ngộ chính là sự trao truyền; một vị thầy chỉ chứng nhận sự chứng ngộ. Nghĩa là, bạn trao truyền chính bạn cho chính bạn – bằng cách chứng ngộ rằng chính thân này, chính tâm này, chính chỗ chúng ta đang đứng này không là cái gì khác Phật. Có điều gì có thể hơn nữa? Chúng ta nhấn mạnh sự quan trọng của một vị thầy vì vị ấy thực sự biết trau truyền là gì và làm sao gìn giữ nó.

Thế nên, hãy ngừng sự thực hành trí thức tìm kiếm đuổi theo ngôn ngữ; hãy xoay ánh sáng lại và soi chiếu. Thân tâm sẽ tự rơi mất, và khuôn mặt xưa nay của các ông sẽ xuất hiện. Nếu các ông muốn được như thế, hãy khẩn thiết thực hành như thế.

Chớ phí thời gian cho hiểu biết trí thức thay vì thực sự thực hành, những hoạt động trí thức sẽ là một loại trở ngại.

Đạo Nguyên nói “xoay lại”. Đây là chìa khoá. Trong đời sống hàng ngày của chúng ta, sự xung động chúng ta là tiến về phía trước. Tuy nhiên, thay vì tiến tới, nếu chúng ta bước lui và cẩn thận xem xét sự thực hành trong chính khoảnh khắc này thì sao? Chúng ta tự làm cho mình nhiễm ô như thế nào? Chúng ta tạo ra những lỗ hổng. Những lỗ hổng này do dự quy ngã, ý thức thói quen của chúng ta tạo ra, chúng phân cách chúng ta với cái gọi là những cái ở bên ngoài hay những người khác. Đây là thức phân biệt.

Dĩ nhiên, sự nhận biết những cái khác biệt cũng là một vấn đề rất quan trọng. Đặc biệt trong tham công án, các bạn xử lý mối tương quan giữa cái một và những cái khác theo một cách rất đặc biệt - nhưng chỉ sau khi đã chứng ngộ cái một. Không có nền tảng chứng ngộ này, chúng ta sẽ tạo ra đủ loại phán đoán giá trị, những cái này ngăn cách chúng ta với chính chúng ta và với những cái bên ngoài. Cách nào đó thì những phán đoán giá trị là cần thiết, nhưng cũng chính vì chúng mà chúng ta tạo ra những rắc rối. Thế nên, việc phải làm là lùi lại và không phóng tới. Bấy giờ hãy khảo sát và soi chiếu chính bạn một cách cẩn thận.

“Thân tâm sẽ tự rơi mất”. Các bạn không cần quan tâm về chuyện thân tâm tiêu mất. Khi các bạn thực hành như Đạo Nguyên chỉ dạy, điều đó sẽ xảy ra. Thế nên trước hết các bạn ngồi, rồi vào định. Rồi, trong định, cái thức quy ngã, hạn hẹp kia sẽ biến mất. Bạn sẽ nhận ra rằng bạn và vũ trụ là một. Điều đó tự động xảy ra.

“Thân tâm sẽ tự rơi rụng mất, và khuôn mặt xưa nay của các ông sẽ xuất hiện”.

“Khuôn mặt xưa nay” hay bản lai diện mục nghĩa là giác ngộ.

“Nếu các ông muốn được như thế, hãy khẩn thiết thực hành như thế”.

“Như thế” cũng có nghĩa là giác ngộ. Nếu muốn đạt đến giác ngộ, các bạn phải thực hành giác ngộ không trì hoãn. Và thực hành giác ngộ là ngồi thiền.

Ảnh: Nguồn Internet

Bài viết liên quan