BỒ TÁT OAI ĐỨC TỰ TẠI - KINH VIÊN GIÁC LƯỢC GIẢNG - ĐƯƠNG ĐẠO

KINH VIÊN GIÁC LƯỢC GIẢNG- ĐƯƠNG ĐẠO

CHƯƠNG: BỒ TÁT OAI ĐỨC TỰ TẠI

---o0o---

Muốn tu các phương tiện tương ưng với các phương diện của tánh Giác, trước tiên phải ngộ tánh Giác vốn thanh tịnh, không phiền nhiễu khuấy động. Ngộ này có những cấp độ: ở phàm phu là hiểu, ở Tam Hiền là biết (giác), và ở Mười Địa, ngộ là thể nhập tánh Giác Pháp thân.
BỒ TÁT OAI ĐỨC TỰ TẠI - KINH VIÊN GIÁC LƯỢC GIẢNG - ĐƯƠNG ĐẠO

KINH VIÊN GIÁC LƯỢC GIẢNG- ĐƯƠNG ĐẠO

CHƯƠNG: BỒ TÁT OAI ĐỨC TỰ TẠI

---o0o---

Bồ tát Oai Đức Tự Tại thưa hỏi có mấy thứ phương tiện tu hành Viên Giác.

Bấy giờ Bồ tát Oai Đức Tự Tại ở trong đại chúng, từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ dưới chân Phật, nhiễu quanh bên phải ba vòng, quỳ thẳng chấp tay mà bạch Phật rằng:

Thế Tôn đại bi! Ngài đã vì chúng con phân biệt rộng sự tùy thuận tánh Giác như thế khiến cho các Bồ tát nhờ viên âm của Phật mà giác tâm sáng tỏ không qua tu tập mà được lợi lạc tốt đẹp.

Thế Tôn! Ví như thành lớn, ngoài có bốn cửa, tùy phương mà vào, chẳng phải chỉ có một đường. Tất cả Bồ tát trang nghiêm cõi Phật cùng thành tựu Giác ngộ chẳng phải chỉ có một phương tiện. Nguyện xin Thế Tôn rộng vì chúng con tuyên nói tất cả phương tiện thứ lớp và chung quy có mấy thứ cho người tu hành, để cho Bồ tát trong hội này và chúng sanh đời rốt sau cầu Đại thừa chóng được khai ngộ, dạo chơi trong biển đại tịch diệt Như Lai.

Nói xong năm vóc làm lễ sát đất. Cầu thỉnh như vậy lập lại ba lần.

Ở trước, trong Chương Phổ Hiền đã nói: “Biết huyễn tức lìa, chẳng khởi phương tiện; lìa huyễn tức giác, cũng không thứ lớp”, vậy mà ở đây ngài Oai Đức Tự Tại hỏi về phương tiện, thì đó là phương tiện nào, phải hiểu phương tiện như thế nào?

Phải biết rằng ba phương tiện được nói ở sau không lìa ngoài tánh Viên Giác. Ba phương tiện đó tương ưng với ba đức tính của tánh Viên Giác. Vì tánh Giác thì thường định, cho nên muốn vào tánh Giác phải tùy thuận tánh định của Viên Giác, nghĩa là phải dùng pháp Chỉ hay thiền định. Vì tánh Giác vốn là thường giác, thường huệ, tức là ánh sáng thường soi chiếu (Đại quang minh tạng), cho nên muốn vào tánh Giác phải tùy thuận, tương ưng với tánh soi chiếu của Viên Giác, nghĩa là phải dùng pháp Quán hay thiền quán. Vì tánh Giác vốn là Định Huệ đồng thể, nên muốn vào tánh Giác phải dùng Chỉ Quán song tu hay Định Huệ đồng thời.

Tóm lại, vi tánh Giác là Tịch, nên hành giả dùng phương tiện Chỉ để tương ưng với phương diện Tịch ấy của tánh Giác.Vì tánh Giác là Chiếu nên hành giả dùng phương tiện Quán để tương ưng với phương diện Chiếu của tánh Giác. Vì tánh Giác là vừa Tịch vừa Chiếu nên hành giả dùng phương tiện Chỉ Quán đồng thời để tương ưng với phương diện Tịch Chiếu đồng thời của tánh Giác. Đứng ở trong tánh Giác thì nói là tánh Giác có ba đức tính, có ba phương diện, đứng ở ngoài mà nói thì đó là ba phương tiện để tùy thuận tánh Giác dành cho người tu hành.

Đó là ý nghĩa: thành lớn có bốn cửa, cửa chẳng ngoài thành, dụ cho tánh Giác có ba phương diện mà đối với hành giả là ba cửa phương tiện để đi vào, để tương ưng với thành tánh Giác. Ba phương diện ấy chẳng ở ngoài tánh Giác. Đối với đạo Phật phương tiện không ngoài cứu cánh, phương tiện đến đâu thì cứu cánh đến đó, phương tiện tức là cứu cánh, cứu cánh thể hiện nơi phương tiện.

Tất cả pháp môn không ngoài ba phương tiện

Bấy giờ Thế Tôn bảo cùng Bồ tát Oai Đức Tự Tại:

Lành thay! Lành thay! Thiện nam tử! các ông có thể vì các Bồ tát và chúng sanh đời rốt sau mà thưa hỏi Như Lai về phương tiện như vậy. Nay các ông lắng nghe, ta sẽ nói rõ.

Khi ấy Bồ tát Oai Đức Tự Tại hoan hỷ vâng lời dạy, cùng cả đại chúng yên lặng lắng nghe.

Thiện nam tử! Tánh Diệu Giác vô thượng trùm khắp mười phương, xuất sanh Như Lai cùng tất cả các pháp, đồng thể bình đẳng. Trong tánh Giác đồng thể bình đẳng này, việc tu hành thật không có hai, song phương tiện tùy thuận tánh Giác thì vô lượng. Gom hết các căn tánh sai biệt, chung quy có ba thứ.

Chương này nói rõ ba pháp môn gồm nhiếp tất cả các pháp môn của đạo Phật. Muốn đạt đến cái Oai Đức Tự Tại của tánh Giác, chúng ta phải miên mật thọ trì ba pháp môn này, niệm niệm tùy thuận tánh Giác.

Tánh Diệu Giác vô thượng trùm khắp mười phương, bình đẳng suốt ba thời, trong đó Như Lai cùng tất cả các pháp, tánh tướng đồng thể bình đẳng, cho nên không đâu không là Giác, chỗ nào cũng là cửa vào, không gì không là phương tiện. Vốn đã như thế thì không phương tiện nào ở ngoài cứu cánh, không có cái tu nào ở ngoài cái vốn đã viên thành, không con đường về nào không nằm trên đất Phật, vừa mới khởi tu là đã vô tình ngăn cách. Biết rằng thật không có hai, không có cái đang tu và cái sẽ được chứng, ắt việc tu hành mau xong vậy.

Tánh Giác viên diệu vô thượng toàn khắp mười phương, không chỗ nào không có, không thời gian nào không hiện hữu, nên các phương tiện tùy thuận tánh Giác cũng là vô lượng. Nhưng gom lại tất cả căn tánh khác biệt, chung quy có ba thứ. Ba thứ lớp ấy là ba khả năng chính yếu của mỗi người, đây là ba phương tiện mà ai cũng có.

Chỉ hay Định, là sự tập trung của tâm thức. Quán hay Huệ là sự soi chiếu, quan sát của tâm thức. Và Chỉ Quán đồng thời là vừa tập trung tịch lặng vừa soi chiếu quan sát.

Pháp Chỉ Xa ma tha

Thiện nam tử! Nếu các Bồ tát ngộ được tánh Viên Giác thanh tịnh, thì y nơi tâm giác thanh tịnh này mà giữ cái tĩnh làm hạnh. Do lắng trong các niệm, biết thức là phiền nhiễu khuấy động, huệ thanh tĩnh phát sanh, thân tâm khách trần từ đây diệt hẳn: bên trong bèn phát ra tịch tĩnh khinh an. Do vì tịch tĩnh nên tâm chư Như Lai mười phương thế giới hiện rõ trong đó, như bóng hiện trong gương.

Phương tiện này gọi là Xa ma tha.

Tánh Viên Giác tự là chánh định, vốn không hề động; chỉ một chân hạnh, thuần ròng tịch tĩnh. Thế mà chúng ta từ bao giờ vẫn nhận cái thức phiền nhiễu khuấy động làm mình, lăng xăng khởi diệt theo vọng tưởng thân tâm khách trần, tự vọng động, tự sanh khởi tự hoại diệt, tự mình nhọc mỏi lăng xăng, làm tất cả những tà hạnh đó mà tự trói buộc mình, tự ngăn che với tánh Giác. Trở về tánh Giác chỉ là dẹp bỏ các chướng ngại phiền não khuấy động hư vọng tự mình tạo ra cho mình thành ra nghịch lại với chánh hạnh tịch tĩnh của tánh Giác. Tóm tắt, tu hành chỉ là làm những gì tánh Giác đang là, đó gọi là tùy thuận.

Muốn tu các phương tiện tương ưng với các phương diện của tánh Giác, trước tiên phải ngộ tánh Giác vốn thanh tịnh, không phiền nhiễu khuấy động. Ngộ này có những cấp độ: ở phàm phu là hiểu, ở Tam Hiền là biết (giác), và ở Mười Địa, ngộ là thể nhập tánh Giác Pháp thân. Dầu ngộ ở cấp độ nào, phàm phu thì tin, Tam Hiền thì “tương tợ giác”, Mười Địa thì “tùy phần giác”, thì đều noi theo ba phương diện vốn sẳn có của tánh Viên Giác mà tu cho đến viên mãn.

Để ngộ, để thấy, dù chỉ mới ban đầu, tánh Giác là gì, cách tốt nhất là nhờ một vị thầy, một thiện tri thức khai thị cho, và hành giả được ngộ, được thấy, rồi sau đó nhập.

Có một thiện tri thức uốn nắn, điều chỉnh cho cái thấy còn mơ hồ, còn có chỗ méo mó của mình. Sau đó thiền định về cái thấy ấy, và hạnh là sống cái thấy ấy bằng thân tâm, bằng tất cả cuộc sống trần thế của mình, để tất cả cuộc đời mình chỉ là tánh Giác, chỉ một vị tánh Giác. Cũng chính thiện tri thức điều chỉnh cho mình làm sao để thiền định đúng hơn, tốt hơn, khéo hơn, và chỉ cho mình hạnh (hành động) hoàn thiện nhất để hoàn toàn là tánh Giác, sống trong tánh Giác.

Tin hiểu tánh Giác vốn tịch tĩnh, vốn thanh tịnh thì dùng cái tâm giác thanh tịnh này mà giữ cái tĩnh làm hạnh. Giữ hạnh tĩnh này an trụ trong đó thì sẽ tương ưng tùy thuận cái tịch tĩnh bổn nguyên của tánh Giác. Lắng trong các niệm, xa lìa thức phiền nhiễu khuấy động, an trụ càng lúc càng sâu vào sự tịch tĩnh của tánh Giác, đó là tu Chỉ.

Tâm càng an trụ sâu vào tịch tĩnh thì “tâm chư Như Lai mười phương thế giới hiện rõ trong đó, như bóng hiện trong gương. Lúc ấy tâm là Đại Viên Cảnh Trí, trí như tấm gương lớn tròn sáng. Tâm như tấm gương tròn sáng này càng rộng càng sáng thì tâm chư Như Lai mười phương thế giới càng hiện rõ. Sở dĩ có sự hiện ra này bởi vì tâm ta và tâm chư Phật đồng một tánh Giác. Tâm ta yên lặng tới đâu, tâm Phật hiện ra tới đó.

An trụ trong tánh tịch tĩnh của tánh Giác (Chỉ) thì thấy thân tâm và thế giới là như huyễn (Quán). Như vậy, Quán không lìa Chỉ.

Cuối cùng tâm hành giả và tâm chư Phật hợp nhất như xưa nay vẫn thế; chỉ là một tấm gương sáng lớn rộng khắp mười phương, bình đẳng suốt ba thời, như hư không bất động, chứa tất cả pháp giới chúng sanh đều thanh tịnh. Tâm này là tâm Viên Giác.

Như trên đã nói, trong đạo Phật phương tiện và cứu cánh là một, phương tiện đến đâu cứu cánh hiện ra đến đó. Ở đây, cái thức phiền nhiễu khuấy động ngừng lặng đến đâu thì trí hiện ra đến đó, sự an trụ lắng trong mở rộng đến đâu thì tánh Giác mở rộng đến đó. Như tấm gương sáng, bợn nhơ hư huyễn tiêu tan đến đâu thì ánh sáng hiện bày đến đó, bao nhiêu phần bợn nhơ mất đi thì bấy nhiêu phần ánh sáng hiện diện. Chương Phổ Nhãn nói: “Đối trừ xa lìa như huyễn gọi là Bồ tát. Nhơ hết đối tiêu, bèn không có gì gọi là đối trừ nhơ huyễn. Khi chứng được các tướng huyễn hóa diệt mất, liền đắc thanh tịnh toàn khắp không có phương hướng, tánh Giác hiện rõ khắp cả hư không vô biên”.

Như vậy, pháp Chỉ là để tương ưng tùy thuận với tánh Chỉ hay Định vốn sẳn của tánh Viên Giác.

Pháp Quán Tam Ma bát đề

Thiện nam tử! Nếu các Bồ tát ngộ được tánh Viên Giác thanh tịnh, thì y nơi tâm giác thanh tịnh này mà biết tâm thức cùng căn trần đều do huyễn hóa, bèn khởi quán huyễn để trừ các huyễn, biến hiện các hạnh huyễn mà khai hóa chúng sanh như huyễn. Do khởi quán huyễn mà bên trong phát ra đại bi khinh an.

Tất cả Bồ tát theo đây khởi hạnh quán huyễn, lần lần tăng tiến. Ban đầu người quán huyễn chưa đồng với cảnh huyễn, chưa đồng với hành động quán huyễn, sau thì cả ba đều là huyễn, do đó tướng huyễn được lìa dứt vĩnh viễn. Diệu hạnh tu quán của các Bồ tát này được làm cho viên mãn, như đất làm cho mầm cây tăng trưởng.

Phương tiện này gọi là Tam ma bát đề (Quán).

Chương Phổ Nhãn nói: “Ví như ngọc ma ni thanh tịnh ánh chiếu ra năm màu tùy mỗi phương mà hiện, thế nhưng những người ngu si không biết, thấy ngọc ma ni có năm màu. Cũng như vậy, tánh Viên Giác thanh tịnh ứng hiện ra nơi thân tâm tùy theo mỗi loại, thế mà người si mê lại cho rằng Viên Giác thanh tịnh thật có thân tâm cũng như vậy, do đó chẳng thể xa lìa huyễn hóa”.

Nếu thấy được thân tâm và thế giới chính là sự ánh chiếu ra, ứng hiện ra của tâm Viên Giác bổn lai thanh tịnh theo duyên nghiệp của mỗi người, vì thế thân tâm và thế giới là ảnh hiện, vô tự tánh, bất khả đắc, vô sở hữu như hoa đốm giữa hư không, bèn ngay đó giải thoát. Với một Bồ tát, ngay khi ấy, thân tâm của vị ấy trở thành Hóa thân để làm việc trong thế giới như huyễn này.

Cái đặc tính ‘ánh chiếu ra’, ‘ứng hiện ra’ các tướng huyễn ấy, là phương diện ‘chiếu’, ‘quán’ của tánh Viên Giác. Tánh Viên Giác là Đại quang minh tạng, tạng ánh sáng này vốn vô tướng, là nền tảng cho mọi chiếu hiện thành các tướng như huyễn của tất cả chúng sanh. Như thế, muốn tùy thuận tánh Giác thì phải xuyên qua các bóng hình như huyễn này để trực tiếp thấy nền tảng của chính chúng là ánh sáng của tánh Giác. Muốn không mê mờ, trụ lại trong các tướng như huyễn mà xuyên qua chúng, phải thấy thực sự chúng là như huyễn, tức là phải quán thấy chúng là huyễn, là những chiếu hiện như huyễn trên nền tảng ánh sáng căn bản bất động. Chúng ta mê mờ chạy theo các bóng trong gương mà không thấy gương đâu cả. Muốn thấy gương thì phải xuyên qua các bóng, thấy rõ bóng là như huyễn, có đến có đi, trong khi gương thì bất động. Ở trong tánh Giác, các tướng đều như huyễn, vậy thì muốn ở trong nền tảng tánh Giác, phải thấy các tướng là như huyễn.

Căn, trần, thức duyên sanh từ những cái huyễn, có cũng là do huyễn hóa. Như thế thân tâm và thế giới, chúng sanh, đều như huyễn. Phải thấy tính chất thực sự của chúng là huyễn. Người tu hành quán tất cả là huyễn để trở lại tánh Giác. Không những tâm quán huyễn, mà thân khẩu còn biến ra các hạnh huyễn để độ chúng sanh như huyễn. Như thế toàn thân, khẩu, tâm, và thế giới, chúng sanh toàn bộ đều nằm trong quán huyễn. Có huyễn toàn bộ thì tánh Giác mới có thể được chứng ngộ toàn bộ.

Khi dần dần quán thấy được huyễn, bèn có đại bi khinh an. Pháp Chỉ thì nói là “phát ra tịch tĩnh khinh an”, pháp Chỉ Quán đồng thời thì nói “phát ra tịch diệt khinh an”, pháp Quán Huyễn thì nói “phát ra đại bi khinh an”.Tại sao quán huyễn lại đi liền với đại bi? Khi bắt đầu quán thấy được huyễn, hành giả mới thấy rằng bao lâu nay chúng sanh vẫn khổ đau trong cảnh huyễn, lại tham, sân, si, kiêu căng, đố kỵ… để càng tạo thêm nghiệp mà kéo dài cảnh huyễn không biết ngày nào ra.

Sự thật thứ nhất của đạo Phật là Khổ đế, tức là ‘bất toại nguyện’. Sở dĩ bất toại nguyện vì không thực, không bền vững, vì bản chất là huyễn. Thế nhưng chúng sanh cứ chạy theo huyễn để rồi bất toại nguyện, lại gây thêm nghiệp xấu để khổ đau cho mình cho người mà không hề biết sanh tử là huyễn. Thấy như vậy tức thì có lòng thương xót, lòng đại bi. Cho nên càng quán huyễn thì lòng bi càng lớn mạnh. Quán huyễn và đại bi tỷ lệ thuận như vậy.

Pháp quán huyễn là: ban đầu quán thấy cảnh tướng đối tượng là huyễn, rồi đến phương tiện tu hành là hành động quán huyễn cũng huyễn, cuối cùng người quán huyễn cũng là huyễn. Sự quán huyễn cũng giống như người quán Không mà thường được gọi là ‘ba luân không’: đối tượng là Không, hành động giữa đối tượng và chủ thể là Không, và cuối cùng chủ thể cũng Không. Càng quán như huyễn thì càng an trụ vào tánh tịch tĩnh của tánh Giác. Như vậy Quán không lìa Chỉ.

Nhưng tại sao có huyễn để quán huyễn là sự trở về vói tánh Giác thanh tịnh bổn nguyên? Từ vô thủy đến vô chung, chỉ có Đại quang minh tạng của tánh Viên Giác. Đây là một tạng ánh sáng không có trung tâm, không có thân tâm và thế giới: “thân tâm tịch diệt, bình đẳng suốt ba thời, viên mãn khắp mười phương, tùy thuận bất nhị”. Thế mà, kể từ khi có con người với cọng nghiệp và biệt nghiệp của họ, thế giới bắt đầu được phóng chiếu ra qua cọng nghiệp và biệt nghiệp ấy. Thế giới được phóng chiếu ra, dĩ nhiên dựa trên ánh sáng nền tảng là Đại quang minh tạng, qua một trung tâm lớn là cọng nghiệp của loài người và các trung tâm nhỏ ở trong đó là biệt nghiệp của từng người. Từ đây có thế giới, có chúng sanh, có tham sân si, có vui buồn, ghét giận… là kết quả của vô số trung tâm có ra là do vọng tưởng dệt thành. Tất cả mọi cái có ấy đều như huyễn vì được phóng chiếu ra từ vô số nghiệp thức con người. Luận Đại thừa Khởi Tín nói: “Tâm sanh thì thảy thảy pháp sanh, tâm diệt thì thảy thảy pháp diệt”.

Thế nên, khi tướng nhơ của huyễn được lìa dứt vĩnh viễn thì Đại quang minh tạng hay là tánh Giác không còn phiền não chướng và sở tri chướng nên hoàn toàn lộ bày. Như khi ra khỏi được cái thấy chỉ có những hình bóng thì thấy ra mặt gương trong sáng bổn nguyên thanh tịnh. Và một khi biết mặt gương sáng thì các bóng tuy có, nhưng như huyễn. Một khi biết huyễn, thì ngay nơi tướng huyễn người ta vẫn thấy nền tảng của nó là ánh sáng của tánh Giác hay Đại quang minh tạng. Đây là sự giải thoát của Bồ tát: không cần dẹp tất cả các bóng để thấy gương, mà thấy được ngay nơi bóng là gương, ngay nơi tướng huyễn là ánh sáng vốn tự giải thoát và làm cho các tướng được tự giải thoát vì chúng là như huyễn. Không cần hủy hoại tất cả các sắc để thấy tánh Không, mà ngay nơi sắc là tánh Không: “Sắc chẳng khác Không, Không chẳng khác sắc, Sắc tức là Không, Không tức là sắc”.

Sự tu quán huyễn này lần lần tăng tiến cho đến khi viên mãn, như đất làm cho mầm cây tăng trưởng. Như nơi một mặt gương, sự thấy các bóng trong gương là như huyễn càng lớn rộng thì mặt gương hiện ra càng lớn rộng, bởi vì bóng ở đâu thì gương ở ngay đó.

Pháp Thiền, Chỉ Quán đồng thời

Thiện nam tử! Nếu các Bồ tát ngộ được tánh Viên Giác thanh tịnh, thì y nơi tâm giác thanh tịnh này, chẳng giữ quán huyễn (Tam ma bát đề) hay theo hạnh tĩnh (Xa ma tha), mà biết rõ thân tâm đều là ngăn ngại, còn tánh Viên Giác trong suốt vốn không phân biệt (vô tri giác minh) chẳng hề bị các tướng làm ngăn ngại, vĩnh viễn siêu vượt khỏi mọi cảnh chướng ngại và không chướng ngại. Nó vẫn thọ dụng các tướng thân tâm và thế giới nơi trần gian mà không bị ngăn che ràng buộc, như âm thanh khi đánh vào một vật, tuy ở nơi vật đó mà vẫn thoát ra ngoài. Phiền não Niết bàn chẳng lưu ngại nhau cũng lại như vậy.

Bấy giờ bên trong bèn phát ra tịch diệt khinh an. Đó là cảnh giới tịch diệt tùy thuận Diệu Giác: mình người, thân tâm hoàn toàn chẳng có, chúng sanh, thọ mạng đều là ý tưởng hảo huyền.

Phương tiện này gọi là Thiền na (Chỉ Quán song tu).

Chẳng giữ quán huyễn là chẳng y theo phương diện Chiếu của tánh Giác, chẳng theo hạnh tĩnh là chẳng y theo phương diện Tịch của tánh Giác. Thiền là y vào bản tánh Giác vừa tịch vừa chiếu mà tu, an trụ vào đó, niệm niệm tương ưng tùy thuận với nó. Nhưng trong Thiền, luôn luôn có sự tịch tĩnh (Chỉ) và như huyễn (Quán), thế nên Thiền được gọi là Chỉ Quán đồng thời.

Nhưng trước khi biết an trụ, niệm niệm tương ưng thì phải biết tánh Giác là gì, nghĩa là phải ngộ được tánh Giác, dù ở cấp độ Tương tự giác của Tam Hiền hay Tùy phần giác của Mười Địa. Ở Mười Địa thì sự ngộ tánh Giác thật hơn, trực tiếp hơn, nên sự an trụ cũng thật hơn, chính đúng hơn, niệm niệm tương ưng cũng trực tiếp hơn, hiệu quả hơn.

Tánh Giác thấu thoát qua các tướng thân tâm và thế giới. Chính sự thấu thoát này làm cho thân tâm và thế giới thành như huyễn. Như ánh sáng của gương thì thấu thoát qua mọi bóng trong gương, không bị các bóng làm ngăn ngại, che chướng và làm cho các bóng thành như huyễn. Như ánh sáng của quả cầu pha lê thấu thoát qua mọi biểu lộ màu sắc của nó. Tánh Giác sáng suốt vốn không phân biệt. Sáng suốt nghĩa là ánh sáng của nó thấu suốt qua mọi hình tướng, không phân biệt nghĩa là nó thấu suốt qua tất cả, bình đẳng với tất cả, không phân biệt với tất cả, thậm chí nó hòa đồng và hợp nhất tất cả tướng thành Một Tướng Vô Tướng. Tánh Giác là cái siêu vượt, vĩnh viễn ở ngoài mọi tướng, như âm thanh khi đánh vào một vật, âm thanh đó đã thấu thoát ra ngoài vật đó, không bị giam cầm trong vật.

Như thế, khi nào tâm không còn vướng mắc vào thân tâm và thế giới, chủ thể và đối tượng, không trụ vào các tướng đó thì tâm ấy là tánh Giác. Khi nào ánh sáng của tâm thấu thoát qua những hình tướng, không bị cầm giữ, lưu ngại bởi bất cứ tướng nào, khi ấy tâm này là tánh Giác. Khi nào tâm không còn bị chia chẻ, phân mảnh bởi các tướng mà trụ nơi không phân biệt vốn là thật tướng của nó, khi ấy tâm là tánh Giác. Lục Tổ Huệ Năng chỉ thẳng tánh Giác:

“Tự nơi mỗi người, xác thân là thành, mắt tai mũi lưỡi là cửa. Ngoài có năm cửa, trong có cửa ý. Tâm là đất, tánh là Vua. Vua ở trên đất tâm. Trên đất tự tâm là tánh Giác Như Lai phóng ánh sáng lớn, ngoài soi chiếu sáu cửa thanh tịnh, phá sạch sáu cõi trời dục giới. Tự tánh chiếu bên trong, ba độc liền trừ, hết thảy tội địa ngục cùng lúc tiêu diệt. Trong ngoài sáng suốt, đâu khác gì Tây phương”.

Môn phong của Thiền sư Bá Trượng là:

Linh quang độc chiếu

Vượt thoát căn trần

Thể lộ chân thường

Chẳng vướng văn tự.

Tánh tâm không nhiễm

Vốn tự viên thành

Chỉ lìa vọng duyên

Tức Như Như Phật.

“Tham thiền tham Tánh, Tánh tham thiền”, là đây vậy.

Kinh Lăng Nghiêm nói về tánh thấy, tánh nghe (tức tánh Giác) rõ ràng và chi tiết. Ở đây chúng ta theo Kinh Viên Giác này để giải thích.

Thiền không quán huyễn, không dừng niệm, chỉ quán thấy thẳng, tham thiền ngay tánh Giác thanh tịnh chẳng động chưa hề nhiễm ô, chưa hề có hoa đốm này. Tánh Giác ví như đại dương. Quán huyễn là thấy sóng không phải là nước, như vậy vượt qua tướng sóng để thấy đại dương toàn là tánh nước. Hạnh Tĩnh là ngừng sóng hay lặn xuống khỏi sóng và an trụ trong đại dương để thấy đại dương toàn là tánh nước. Còn Thiền thì ở ngay nơi sóng mà thấy tánh nước ‘siêu vượt’, ‘thoát ra ngoài’ sóng. Với Thiền, tánh nước vẫn thọ dụng các tướng sóng (các tướng thân tâm và thế giới) mà không bị ngăn che ràng buộc bởi tướng sóng, vì nước dầu ở trong sóng vẫn là nước. Bấy giờ thấy tướng sóng ở đâu thì biết ngay tánh nước ở đó, tướng sóng khởi nơi nào thì biết ngay đó là hoạt dụng của tánh nước. Tánh tức là hết thảy tướng, tất cả tướng tức là tánh, đó là Thiền.

Chúng ta đã biết tâm có bản tánh là quang minh (Minh) và rỗng không vô biên (Không). Như thế các tư tưởng, các niệm khởi sanh từ đó từ đó cũng có bản tánh là Minh và Không.

Quán Huyễn là quán thấy các tư tưởng, các niệm là huyễn, do đó lìa được các huyễn và chứng ngộ được bản tâm “chẳng phải huyễn”. Nói là lìa, nhưng thực ra chỉ là lìa cái nhơ do chấp thực vào huyễn. Khi thấy các niệm là huyễn nghĩa là cùng một bản tánh Minh - Không, khi ấy các huyễn trở lại tâm Minh - Không. Nói cách khác tâm Minh - Không nhiếp lấy các huyễn cùng một bản tánh với mình. Khi ấy hành giả trở lại cái tâm toàn thể. Hạnh Tĩnh là lóng trong, làm bình lặng các niệm. Có thể làm bình lặng các niệm, vì các niệm cũng một bản tánh Minh - Không với tâm. Như thế hạnh Tĩnh là đưa các niệm về nền tảng tâm Minh - Không của chúng để đạt đến cái tâm toàn thể.

Thiền thì các niệm dù có khởi nhưng chúng cũng một bản tánh với tâm Minh - Không. Đó là cái tâm toàn thể: “Tâm đại giác vô lượng, vốn không có hai tướng”.

Khi thấy bản tánh của tâm vốn là tánh Không, vốn là giải thoát, thì các niệm khởi từ tâm cũng là tánh Không, cũng tự giải thoát. Thế nên, cuối chương Thanh Tịnh Huệ có nói:

“Chỉ trong mọi thời không khởi vọng niệm, với các vọng tâm cũng chẳng dừng diệt, ở cảnh vọng tưởng chẳng gia thêm hiểu biết phân biệt, nơi chỗ không hiểu biết chẳng phân biện chân thật… Phật nói người này sẽ thành tựu nhất thiết chủng trí”.

Ba pháp ấy là sự nghiệp của Bồ tát

Thiện nam tử! Ba pháp môn này đều là thân cận tùy thuận Viên giác. Mười phương Như Lai nhân đây thành Phật. Hết thảy phương tiện đồng hay khác của Bồ tát mười phương đều y vào ba thứ sự nghiệp này, nếu chứng được viên mãn tức là thành tựu Viên Giác.

Thiện nam tử! Giả sử có người tu theo Thánh đạo, giáo hóa thành tựu trăm ngàn vạn ức người chứng quả A-La-Hán, Bích Chi Phật, không bằng có người nghe được pháp môn Viên Giác vô ngại này mà trong một khoảng sát na tùy thuận tu tập.

Ba pháp môn Định, Huệ và Định Huệ đồng thời khởi từ tánh Viên Giác và thành tựu viên mãn cũng trong tánh Viên Giác. Ba pháp ấy đều thân cận tùy thuận tánh Viên Giác, và đó cũng là ba khả năng của tâm thức con người. Ba pháp tu ấy không lìa nhau, trong một cái có hai cái kia. Đây là ba sự nghiệp của Bồ tát mười phương cho đến khi thành Phật như chư Phật đã nhân đây thành Phật. Thế nên mỗi ngày, mỗi giờ, mỗi giây phút người tu hành đạo Bồ tát cần sống trong ba pháp tu ấy, thay đổi lẫn nhau không hở sót.

Phân biệt một cách tương đối, pháp Chỉ và Quán đi từ tướng vào tánh, từ ngoài vào trong. Còn pháp thiền thì đi từ tánh ra tướng, từ trong ra ngoài. Cái nào thuận tiện hơn là tùy theo những thiện căn đã thực hành ở những đời trước của mỗi người.

Cả ba pháp đều đưa chúng ta trở lại bản tâm toàn thể của mình. Bản tâm toàn thể là tất cả thể và dụng của tâm, gồm nền tảng vô niệm và tất cả những tư tưởng hoạt động mà như huyễn của nó.

Ba pháp môn ấy bổ túc lẫn nhau, hỗ trợ lẫn nhau để đưa hành giả đến chỗ trọn vẹn tức là Giác ngộ viên mãn. Pháp môn nào cũng đưa hành giả tiến tới, nên tùy theo căn cơ, tùy thời điểm, tùy hoàn cảnh mà sử dụng, miễn là chẳng bao giờ để tâm không thực hành một pháp môn nào cả nghĩa là tâm không tương ưng, không ở trong tánh Giác. Thế nên Kinh nói: “Trong một khoảng sát na tùy thuận tu tập”, bởi vì sát na nào cũng quý báu như vàng, bởi vì sát na nào cũng có và cũng là toàn thân tánh Viên Giác.

Bài kệ trùng tuyên

Bấy giờ Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa này nên nói kệ rằng:

Oai Đức ông nên biết

Tâm Đại Giác vô lượng

Vốn không có hai tướng

Tùy thuận mọi phương tiện

Mà thành vô lượng số.

Như Lai gồm chỉ bày

Không ra ngoài ba pháp

Tịch tĩnh Xa ma tha

Như gương chiếu các bóng,

Như huyễn Tam ma đề

Như mầm dần tăng trưởng,

Thiền na duy tịch diệt

Như tiếng trong vật kia.

Ba pháp môn vi diệu

Đều là tùy thuận giác

Mười phương chư Như Lai

Cùng các Đại Bồ tát

Nhân đây được thành đạo

Ba môn đều chứng trọn

Gọi rốt ráo Niết bàn.

Tánh Viên Giác tròn vẹn sẳn đủ khắp mười phương, không đâu không có nên đâu cũng là cửa vào. Căn, trần, thức, cái nào cũng nằm trong tánh Viên Giác nên nhìn gì cũng thấy nó, tiếp xúc với cái gì cũng là tiếp xúc với nó, nghe cái gì cũng là nghe nó.

Đức Phật đã gồm lại tất cả pháp môn thành ba cửa chính: Chỉ, Quán và Thiền. Đây cũng là ba công đức của tánh Giác.

Pháp Chỉ nhằm tương ưng, tùy thuận với tánh tính tịch tĩnh của tánh Giác. Khi đạt đến sự tịch tĩnh của tánh Giác, thì nhìn thấy các tướng chỉ là các bóng trong gương, mà gương thì luôn luôn bất động, không ô nhiễm. Pháp Quán nhằm tương ưng tùy thuận với tính chiếu soi như huyễn của tánh Giác, như mầm cây dần tăng trưởng cho đến lúc trùm hết ba cõi như huyễn. Pháp Thiền ở thẳng vào tánh tịch diệt, thanh tịnh bổn nguyên của tánh Giác, như tiếng từ vật phát ra thấu suốt không ngại.

Như chương Viên Giác ở sau nói một cách khẳng định: “nếu chúng sanh tinh tấn siêng năng tu cả ba pháp, tức gọi là Như Lai xuất hiện ở đời”.

---o0o---

Trích: "Kinh Viên Giác Lược Giảng"

Giảng giải: Đương Đạo

Nhà Xuất Bản: Thiện Tri Thức, 2015

Ảnh: Nguồn internet

Bài viết liên quan