BỐN: TÍNH KHÔNG - TRÍCH: ĐÁNH THỨC VỊ PHẬT ĐANG NGỦ - CHAMGON KENTING TAI SITUPA 12TH - Người dịch: Nguyên Toàn - NXB Tôn Giáo 2010

BỐN: TÍNH KHÔNG

TRÍCH: ĐÁNH THỨC VỊ PHẬT ĐANG NGỦ - CHAMGON KENTING TAI SITUPA 12TH

Người dịch: Nguyên Toàn - NXB Tôn Giáo 2010

--o0o--

Tuy nhiên, đạo sư vĩ đại Long Thọ (Nagarjuna) đã giải thích ba lần chuyển pháp luân theo cách hiểu của ngài. Long Thọ là một trong tám đại đạo sư Ấn độ trong lịch sử Phật giáo - đôi khi còn được gọi là Tám Vinh dự vĩ đại của Trái đất (Eight great ornaments of the earth).
BỐN: TÍNH KHÔNG - TRÍCH: ĐÁNH THỨC VỊ PHẬT ĐANG NGỦ - CHAMGON KENTING TAI SITUPA 12TH - Người dịch: Nguyên Toàn - NXB Tôn Giáo 2010

 

Nguyên lý về tính Không có trong tất cả bài giảng của Đức Phật. Ngài cũng nhấn mạnh đặc biệt vào những bài giảng cuối cùng của mình trong hai lần Chuyển Pháp Luân thứ Hai và thứ Ba. Trong những bài giảng đó, Đức Phật đã giải thích quan niệm về tính Không, nhưng trong hai lần giảng này, ở lần Chuyển Pháp Luân thứ hai tính Không và trí tuệ được quan tâm đặc biệt. Nhiều bài giảng này được tìm thấy trong Bát Nhã Tâm Kinh mà Đức Phật đã dạy theo yêu cầu của các vị bồ tát là học trò của Ngài.

Trong Chuyển Pháp Luân lần thứ nhất, Đức Phật đã giảng về Tứ Diệu Đế. Ở lần thứ hai Ngài giảng về tính Không. Lần thứ ba, Ngài giảng về phật tính. Đó là tiến trình những bài giảng của Đức Phật.

Tuy nhiên, đạo sư vĩ đại Long Thọ (Nagarjuna) đã giải thích ba lần chuyển pháp luân theo cách hiểu của ngài. Long Thọ là một trong tám đại đạo sư Ấn độ trong lịch sử Phật giáo - đôi khi còn được gọi là Tám Vinh dự vĩ đại của Trái đất (Eight great ornaments of the earth). Ngài nói rằng ở lần Chuyển Pháp Luân đầu tiên, Đức Phật giảng về Ngã. Lần Chuyển Pháp Luân thứ hai, Đức Phật giảng về tính Không và ngã. Và ở lần thứ ba Ngài làm sáng tỏ những kết quả bài giảng ở lần thứ nhất và thứ hai. Đó là sự miêu tả của ngài Long Thọ.

Một trong tám đại đạo sư khác ngài Thánh Thiên (Aryadeva), cũng miêu tả về ba lần Chuyển Pháp Luân. Ngài cho rằng lần giảng đầu tiên cho các đệ tử là hướng dẫn họ tránh xa việc tích tụ các nghiệp xấu hoặc là nghiệp tiêu cực. Lần thứ hai Đức Phật giảng làm thế nào để khắc phục cái ngã, là nguồn gốc của mọi tội lỗi. Bài giảng này là về tính Không. Lần Chuyển Pháp Luân thứ ba, theo ngài Thánh Thiên, Đức Phật dạy làm thế nào để khắc phục những quan điểm và tư tưởng làm giới hạn sự hiểu biết đúng đắn và hoàn hảo.

Thực chất của Ba lần Chuyển Pháp Luân là dễ hiểu, đơn giản. Đó là nơi Phật giáo bắt đầu. Đó là nơi chúng ta cần theo vào bất cứ khi nào lần theo những giáo lý của Đức Phật. Đấy là lý do tại sao các đạo sư vĩ đại nhất đã viết những bình giải về các giáo lý này, và tại sao tất cả đệ tử của con đường đi tới giác ngộ phải suy niệm và thực hành những giáo lý này. Chủ đề tính Không trong ba bài giảng này chứa đựng trong mười bảy các kinh chính yếu và được tập hợp lại với tiêu đề Kinh Bát nhã. Do thu thập khác nhau nên có lẽ chia thành nhóm các kinh cũng khác nhau, vì vậy, số lượng các kinh sách có thể thay đổi, nhưng những lời dạy của Đức Phật là khởi nguồn cho bài giảng về tính Không. Tất cả các kinh điển khác cũng đề cập đến, nhưng mười bảy kinh này là cụ thể hơn.

Kinh đầu tiên trong số mười bảy Kinh Bát nhã là dài nhất. Trong bản tiếng Tạng, được dịch từ tiếng Sankrit, bao gồm 400,000 câu, và tạo thành 100,000 shlokas, hay là các bài kệ bốn câu. Kinh này có mười hai bộ, và mỗi bộ từ 800 đến 1000 trang. Kinh nhỏ nhất trong số mười bảy kinh là Tâm Kinh mà đã dịch sang tiếng Anh là Heart Sutra. Kinh ngắn nhất chỉ có một âm tự “ah” (trong tiếng Tạng nó là “small ah” – là “kinh chỉ có một ký tự”). Chủ đề chính của tất cả các kinh này, từ dài nhất cho đến ngắn nhất, là về tính Không. Các bộ Kinh Bát Nhã đều bàn luận chi tiết về tính Không.

Tính Không được miêu tả như là nền tảng cho mọi sự tồn tại. Mọi thứ là một biểu hiện của tính phụ thuộc lẫn nhau. Mọi thứ là trống rỗng. Đó là tính Không được tóm tắt trong một câu nghịch lý. Chúng ta phải cố gắng để hiểu điều này. Mọi sự vật, hiện tượng tồn tại, nhưng tất cả tồn tại như là một sự biểu hiện phụ thuộc vào nhau. Chúng ta đã thấy hiện tượng phụ thuộc trong mối liên hệ với tái sinh. Mười hai mối duyên khởi đã phác thảo bản chất phụ thuộc của điều mà chúng ta gọi là tồn tại. Nếu chúng ta nhìn sâu hơn vào các biểu hiện phụ thuộc, chúng ta sẽ thấy rằng không có gì tồn tại độc lập. Đó là tính Không. Cũng có thể nói rằng không có gì là không tương quan với nhau, do đó không có gì không phải là Không.

Nhiều người nhầm lẫn về tính Không, nhưng nó không phải là một vấn đề khó hiểu nếu ta nhìn từ quan điểm hình tướng và nền tảng. Tính Không là nền tảng, và vòng luân hồi sinh tử - thể hiện mối tương quan lẫn nhau, là hình tướng áp đặt vào nền tảng. Theo cách này, tính Không trở thành lý do tại sao mọi điều trở thành có thể có khả năng. Đó là nền tảng hay là khoảng không mà • bất kỳ điều gì có thể được tạo ra, và vì vậy, nó làm cho sự tồn tại của luân hồi là có thể, và việc đạt được giác ngộ là có thể. Do tính Không mà sự tinh tấn của mọi chúng sinh là có thể, vì đó là hành động của các vị phật và bồ tát. Bởi vì mọi thứ là phụ thuộc lẫn nhau, nên khi các duyên chín muồi, thì bất cứ điều gì đều có thể xảy ra. Tính Không tạo ra khả năng cho một chúng sinh đang đau khổ trong vòng sinh tử có thể trở thành một vị phật bởi bản tính phật vốn có. Khi chúng sinh đó thanh lọc các u mê luân hồi tương đối đang trói buộc mình, thì chúng sinh đó có khả năng để trở thành giác ngộ. Không có chúng sinh có thể giác ngộ mà không có tính Không. Nếu mọi thứ là chắc thật và vĩnh hằng thì không ai có thể già đi hoặc là học hỏi thêm bất cứ điều gì; và không có gì có thể thay đổi – tốt hơn hay tồi hơn; không có gì có thể được cải thiện, bởi vì không có chỗ cho nó. Đây là suy nghĩ chung nếu bạn nhìn tính Không một cách đơn giản. Tính Không cung cấp cho ta những câu hỏi và câu trả lời cho mọi câu hỏi, bởi lẽ nó cho phép nhận ra sự chuyển động và thay đổi. Nó cho phép ta nhìn thấu và nhận ra bản chất thực sự bên trong mọi sự vật, hiện tượng.

Trong một bộ kinh, Đức Phật giảng về tính Không và nói rằng không có hiện tượng bên trong hay là bên ngoài – bên ngoài như là các yếu tố, hoặc là bên trong như là các tư tưởng là có sự tồn tại chắc chắn. Không cái gì là có. Không có gì là chắc thật. Khi đó Ngài tiếp tục giảng rằng sự sinh là Không, Ngài liệt kê mọi hiện tượng đều là Không; và sau cùng Ngài nói cái chết cũng là Không. Từ sự nảy mầm của cây từ một hạt giống, cho đến khi cây chết và tan rã khi các nguyên tố - lửa, nước, đất, và khí của cây trở về với các nguyên tố vũ trụ, mọi thứ đều là Không. Trong phần cuối của bài giảng, Ngài nói rằng mọi thứ chỉ là huyễn hoặc, và sự huyễn hoặc của mối phụ thuộc của tất cả các nhân và duyên. Khi tất cả các nhân và các duyên ở trong tình trạng tương hợp hoàn hảo, thì huyễn hoặc xuất hiện như là kết quả.

Hãy nhìn vào một bông hoa đẹp và cố gắng thấy tiến trình phát triển của nó. Đó là một huyễn ảnh bởi các biểu hiện phụ thuộc nhau. Hãy nghĩ về điều này. Một bông hồng tồn tại là do tính Không. Nó nảy mầm từ hạt giống, các chồi cây sinh ra, và trở thành một cây trưởng thành và có các nụ hoa, rồi nở ra một bông hồng. Khi các cánh hoa rụng hết và cây có màu nâu, cành cây chết, nó trở về Không, từ nơi nào đó nó sinh ra trước khi là một hạt giống. Mọi thứ là Không, do đó mọi thứ là sự hiện huyễn hoặc của các duyên sinh tương quan, các nhân duyên.

Có nhiều cách để quán xét về tính Không. Có quán xét thực tế, và có quán xét mang tính tâm linh hơn. Liên quan đến quán xét bình thường về tính Không, Đức Phật dạy không có gì là đang xảy ra, do vậy mọi thứ là đang xảy ra. Cách dễ nhất là dùng chính chúng ta như thí dụ của quán xét bình thường. Thí dụ, một gia đình có thể là nhiều hoặc ít hạnh phúc và ổn định, nhưng có thể đôi khi có khủng hoảng. Trong cả hai hoàn cảnh (hạnh phúc hoặc ít hạnh phúc) cũng là cặp vợ chồng đó, và con cái, sống trong cùng môi trường. Không có gì thay đổi ngoại trừ có lẽ sự giao lưu giữa họ là không có. Tuy nhiên, cùng gia đình đó, họ sống trong căn nhà có hai phòng ngủ, một cái vườn, con cái đến trường hàng ngày và cha mẹ đi làm việc. Như vậy, không có gì thực sự thay đổi, và không có gì đang xảy ra ở mức độ nhất định, nhưng ở mức độ khác thì mọi thứ đang xảy ra bởi vì các nhân và duyên đã tạo ra sự thiếu giao lưu giữa họ, đây là biểu hiện của một rắc rối. Ở khía cạnh tương đối, tính Không được lấp đầy với các hoàn cảnh diễn ra đối nghịch với nền tảng của tính Không, mà nảy sinh ra tính Không, nơi tuyệt đối không có gì xảy ra. Mọi sự vật, hiện tượng trong thực thể tương đối xảy ra chỉ như là một biểu hiện phụ thuộc vào nhau trong lĩnh vực tuyệt đối của tính Không.

Đức Phật cũng giảng về mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau giữa sự tồn tại bên ngoài và các quá trình bên trong của mỗi chúng sinh riêng biệt. Điều này xuất phát từ tính Không. Trong các kinh điển, và nhất là trong kinh A tì đạt ma, tính Không được giải thích trong những thuật ngữ rõ ràng và thực tế. Chúng ta liên hệ với thế giới bên ngoài thông qua các giác quan gắn liền với thể xác của chúng ta: mắt/nhìn, tai/nghe, mũi/ngửi. Giác quan của chúng ta phản ứng khi chúng ta tiếp xúc với một đối tượng cụ và tùy thuộc hoàn toàn vào những nhân và duyên đã tạo ra thân thể chúng ta trong kiếp sống này, những nhân và duyên là kết quả của mối liên hệ mười hai duyên khởi. Loại hành vi do yếu tố bên ngoài biểu hiện là cũng do nhân và duyên. Đức Phật giải thích rằng quan niệm của con người ở hành tinh này – trái đất, không thể áp dụng cho toàn bộ cõi người, mà chỉ là hiện tượng đối với con người của hành tinh chúng ta. Hiện tượng có thể khác rất nhiều ở những hành tinh khác, nhưng thực sự chúng ta không có được quan niệm rõ ràng về họ, vì chúng ta chỉ biết cõi giới người của trái đất do chúng ta trải nghiệm với nó.

Đức Phật đã cho một thí dụ mang tính giả thuyết: nếu tâm trí của bạn có thể vào được tâm người khác – ví dụ, người ngay cạnh bạn, và liên hệ với môi trường thông qua người này, bạn có thể nhận thấy rằng cùng môi trường mà bạn đã từng nhận biết, nhận thức của bạn trở nên khác, do theo quan niệm của người đó. Mọi cá nhân nhận thức những điều khác nhau thông qua các giác quan. Ngay trong một kiếp sống, từ nhỏ đến khi trưởng thành, và trong những giai đoạn tuổi tác khác nhau, cách nhìn của một cá nhân về cuộc sống và môi trường cũng liên tục thay đổi. Người trong độ tuổi bốn mươi không có những mong đợi, ham muốn, hay là quan điểm như họ đã có khi ở độ tuổi ba mươi, hoặc là hai mươi. Vì vậy sự khác nhau về quan niệm diễn ra ngay cả trong cuộc đời của một người. Đây là tất cả những nhân tố môi trường bên ngoài như thể chất, xúc cảm, và thần kinh.

Tại sao lại như vậy? Tính Không. Đức Phật cũng cho một thí dụ khác mang tính tâm linh hơn một chút, đó là thí dụ về sông Hằng, con sông thiêng liêng nhất ở Ấn Độ. Ngài nói rằng nếu một người ở Ấn Độ đi tới sông Hằng để tắm, và coi đó là con sông thiêng liêng, thì người này sẽ được ban phúc. Nếu là một con vật đi tới sông Hằng, con sông là nguồn nước uống và tắm rất dễ chịu. Nhưng nếu là một ma đói, nó sẽ tránh xa con sông. Một con ma đói không thể uống hay là chạm vào nước sông vì nó bị đau đớn khủng khiếp. Một chúng sinh ở cõi địa ngục, sông Hằng giống như dung nham núi lửa đang chảy và thiêu đốt. Vì vậy, ngay cả một con sông thiêng liêng, chúng sinh trong các cõi giới khác nhau, lại có cảm nhận khác nhau. Điều này là bởi tính Không, từ đó những nhân và duyên tạo ra những cảm giác khác nhau đối với cùng một đối tượng.

Tất cả chúng sinh của sáu cõi giới trải nghiệm dòng sông theo những cách khác nhau, bởi lẽ chúng sinh từ các cõi giới riêng biệt này có những nghiệp khác nhau, trong khi các chúng sinh cùng cõi giới thì có nghiệp giống nhau. Trong Kinh A tì đạt ma có thuật ngữ đặc biệt dành cho điều này; tiếng Tạng gọi là kal nyum. Kal liên quan đến thời gian, hay là thời điểm, còn Nyum nghĩa là như nhau (bình đẳng), do vậy là “thời điểm như nhau”. Những nhân và duyên của nghiệp khiến cho con người thấy, nghe, và bị ảnh hưởng bởi nhiều điều theo cùng một cách. Tất cả chúng ta là trong một điều kiện tương tự và có chung nền tảng về nhận thức, mặc dù có sự khác nhau trong mỗi cá nhân. Một vài người đọc cuốn sách này có thể nghĩ thông tin là có giá trị. Một số khác thì nghĩ “ tôi đã biết rồi”, trong khi số người khác nghĩ rằng “chẳng có ý nghĩa gì cả”. Vài người có thể tự hỏi “ anh ta biết đang nói về cái gì chứ?”. Gạt sang một bên các ý kiến bất đồng, thì chúng ta vẫn có một nền tảng chung, gọi là kal nyum. Hầu hết những điều không thể đối với chúng ta là giống hệt như nhau. Chúng ta có sự khác nhau hoàn toàn về diện mạo, tư tưởng, và tình cảm – tất cả là bởi vì tính Không. Chúng ta có thể nhìn giống nhau nếu không phải do tính Không. Đây là một cách giải thích tính Không từ quan điểm thông thường.

Liên quan đến khía cạnh tâm linh của tính Không, Đức Phật nói rằng mặc dù mọi chúng sinh đều có phật tính, nhưng mỗi chúng sinh có thể vẫn đau khổ trong luân hồi bởi vì tính Không. Ngài nói ngay cả chúng sinh vô minh nhất có thể đạt được giác ngộ bởi vì tính Không. Có thể trải qua hàng tỷ kiếp từ kiếp này đến kiếp khác để nó quyết định đạt giác ngộ cho đến khi nó thực sự đạt được, nhưng khi đạt được thì hàng tỷ kiếp trở thành ngắn hơn một khoảnh khắc, bởi vì tính Không. Nhiều người mẹ thường nói họ khó có thể nhớ lại nỗi đau sinh nở ngay khi họ bế đứa con mới sinh trong tay.

Đức Phật đã dạy rằng lòng bi mẫn của các vị phật và sự thành tâm của các chúng sinh có thể gặp nhau, bởi vì tính Không. Mặc dù các vị phật có lòng bi nhưng nếu một chúng sinh không có sự thành tâm, thì lòng bi của người ấy sẽ không hiệu nghiệm. Tại sao? Bởi vì tính Không. Như mọi thứ khác, lòng bi và thành tâm là hiện tượng dựa trên tính Không. Cũng vậy, sự thành tâm dẫn đến các chúng sinh nhận và được lợi lạc từ lòng từ bi. Một vị phật hay bồ tát không thể buộc một chúng sinh thành phật. Kinh này tiếp tục về tính Không, và nhắc lại những thí dụ khác nhau, nhưng điểm chính có thể được tóm tắt rằng tất cả ảo ảnh, u mê, và ô nhiễm là Không - cũng như tất cả kiến thức, trí tuệ, và lòng từ bi đều là Không.

Thật là hữu ích để ta xem xét những lời khuyên cơ bản và răn dạy từ các kinh điển. Nếu chúng ta hiểu ra rằng vô minh và ô nhiễm là Không, thì trí tuệ và các phẩm chất tích cực cũng là Không, lúc đó chúng ta có thể có khuynh hướng phát triển một thái độ rằng mọi thứ đều là Không, và do vậy không xem trọng cách cư xử của chúng ta. Chúng ta có lẽ nghĩ OK (tốt ) và làm bất cứ điều gì ta thích, vì dù thế nào thì mọi thứ cũng là Không. Một trong số lời dạy quan trọng nhất trong các bài giảng của Đức Phật là đề phòng với một thái độ như vậy. Trong tiếng Tây Tạng có một thành ngữ rất miêu tả như sau: Tong nyi dar long. Tong nyi nghĩa là tính Không, và dar long nghĩa là đứng lên như một kẻ thù. Hiểu biết tính Không có thể trở thành kẻ thù của sự tinh tấn, nếu thái độ của ta trở nên cẩu thả và vô trách nhiệm. Có một lời dạy khác trong Mật điển. Tiếng Tạng nói một cách chính xác là Tong panyi la nye na ta nyi na serab chung nam pung war jur, nghĩa là người có trí tuệ giới hạn và nhận thức sai về tính Không sẽ bị hủy hoại. Cuộc đời của người đó sẽ trở nên vô ích, và sẽ bị rơi trở lại, nhận thức sai của họ có thể ảnh hưởng tới quan điểm của người khác, và làm cho tình cảnh của chính người đó tồi tệ hơn. Hiểu biết nửa vời về tính Không là không tốt. Sự hiểu sai có thể tạo ra mối hư hoại to lớn.

Người Tây Tạng có một câu ngạn ngữ nổi tiếng về cách tiếp cận đúng đắn như sau: “Cách nhìn của bạn có thể vô hạn như bầu trời, như không gian, nhưng chánh niệm, tỉnh giác, và các hành động của bạn nên trong sáng và mịn như bột. Điều này nghĩa là dù bạn hiểu biết về tính Không nhiều như thế nào, nhưng hiểu biết này phải trở thành tâm thức, tỉnh giác, và giữ giới trong các hành động của bạn. Vì thế, nếu bạn hiểu biết về tính Không, với hiểu biết này bạn phải thực hành giữ giới và những phương pháp rèn luyện tâm thức thì bạn sẽ có nhiều lợi lạc, bởi vì bạn sẽ tham gia trong hoạt động tích cực và sẽ không trở thành cực đoan. Bạn sẽ không bị ám ảnh do bám víu vào phương pháp riêng biệt của mình, vì bạn biết đây chỉ là một phương pháp. Bạn sẽ luôn tỉnh táo, giám sát chính bạn. Bạn sẽ biết tiêu cực không phải là điều vững chắc. Nó là Không. Và bạn cũng sẽ nhận biết rằng một điều tích cực cũng không phải là thực thể. Nó cũng là Không. Tuy vậy, bạn vẫn tu tập theo các phương pháp tích cực để khắc phục sự tiêu cực. Tu tập như vậy, hiểu biết về tính Không sẽ trở thành thực hành hiệu quả đối với bạn.

Tính Không và sự phụ thuộc lẫn nhau có mối quan hệ mật thiết, và cách đơn giản nhất để giải thích và hiểu về tính Không là nhìn ở Mối Liên hệ mười hai duyên khởi. Như đã đề cập, đó là mô hình của vòng luân hồi cho ta thấy bức tranh làm thế nào và tại sao các chúng sinh tiến triển và trôi lăn từ kiếp sống này sang kiếp sống khác. Và có một mô hình khác như là giác ngộ, mối tương quan của giác ngộ. Đó là làm thế nào một vị phật hiển thị và làm lợi lạc cho con người. Mối tương quan bình thường của sinh tử luân hồi bao gồm. Mối Liên hệ duyên khởi: vô minh, hành, thức, sắc, sáu giác quan, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão và tử. Mối liên hệ này trói buộc chúng ta. Tất cả quá trình này quan hệ qua lại với nhau cho đến trước khi chúng ta đạt được giác ngộ về quả vị Phật. Hiểu được như vậy cũng không quá khó.

 

Thái tử Tất Đạt Đa khi đạt được giác ngộ, đã vượt qua ảnh hưởng của mối tương quan, nhưng sự hiển thị của Ngài không vượt ra điều này. Sự hiển thị của Ngài hoàn toàn liên hệ với mối tương quan. Do vậy cách đây 2,500 năm nhiều người đã thấy sự hiển lộ thân vật lý của Ngài. Những người có nghiệp duyên lành thấy Ngài trong những sắc tướng khác nhau. Có những người có nhân duyên nhận được sự ban phúc trực tiếp của Ngài. Có những người khác chỉ nhận được sự ban phúc không trực tiếp của Ngài – đó cũng là do nhân duyên của họ. Sự ban phúc của Đức Phật là bình đẳng cho mọi người, và mọi người nhận được một cách bình đẳng. Nhưng điều đó lại không xảy ra, bởi vì mọi người có khả năng khác nhau để nhận sự ban phúc theo nhân duyên của từng cá nhân. Tiềm năng của các chúng sinh để nhận sự ban phúc luôn tràn đầy, có sẵn – đó là tính phật, nhưng khả năng để nhận được nó có lẽ bị chướng ngại ở những cấp độ khác nhau, bởi vì nhận thức của chúng ta về tính phật bị ngăn cản. Có một câu tục ngữ của Tây Tạng thường được trích dẫn là “mật ngọt của Pháp có lẽ rải xuống một trăm ngàn năm, nhưng với cái lọ úp xuống sẽ không nhận được gì cả (sẽ trống rỗng)”.

Những Phật tử vẫn đang cầu nguyện cho sự giải thoát của tất cả chúng sinh. Mặc dù Đức Phật đã đạt được giác ngộ cách đây 2,500 năm, nhưng còn có nhiều chúng sinh đang chìm trong đau khổ của luân hồi. Ngay cả nhiều đệ tử của Đức Phật vẫn còn ở trong sự nhầm lẫn sâu sắc. Chúng ta không thể đến và nói với Đức Phật rằng “Ngài đã bỏ rơi chúng tôi”, bởi lẽ đó là lỗi của chúng ta. Đức Phật, như một cá nhân đã giải thoát ra khỏi tất cả những ảnh hưởng tương quan. Nhưng sự hiển thị của ngài lại là một sự hiển thị phụ thuộc, mặc dù Ngài không phải là một người bình thường bị giới hạn bởi vòng luân hồi sinh tử như chúng ta. Bởi có nhiều chúng sinh đang đau khổ có duyên nghiệp với Ngài, và bởi tâm hồi hướng của Ngài cho sự giải thoát của tất cả chúng sinh đang tồn tại trong thực thể phụ thuộc tương đối, cho nên hiển thị của ngài cũng tồn tại ở cõi Ta bà. Mặc dù Đức Phật có lẽ không ở sắc tướng Hóa thân như Ngài đã từng làm trước kia, nhưng sự hiện diện của Ngài ở trong mọi trạng thái tiếp xúc để truyền sức mạnh và khuyến khích sự thực hành của chúng ta, hoặc giúp chúng ta hiểu thấu về bản chất của tâm.

Đây là một trong số cách thức thực hành hồi hướng. Chúng ta phải phát triển lòng từ để phát triển sự hồi hướng trong sáng và ngược lại. Sự hồi hướng trong sáng của chúng ta tới Đức Phật xác định sự thuần khiết của những ban phúc mà chúng ta có thể nhận được. Nếu chúng ta muốn nhìn thấy mọi thứ rõ rệt thì chúng ta phải có đôi mắt tốt. Đôi mắt trong sáng hơn sẽ giúp khả năng nhìn của chúng ta đầy đủ hơn. Cũng như vậy sự hồi hướng thanh khiết của chúng ta, sẽ nhận được sự ban phúc thuần khiết hơn, và chúng ta có thể được lợi lạc hơn. Những ai không có sự hồi hướng và lòng từ thuần khiết thì cần nhận được lời khuyên và thực hành để tạo ra những phẩm chất tốt lành này. Khả năng của lòng hồi hướng trong sáng có sẵn trong mỗi chúng ta, nhưng nếu chúng ta không làm gì để tận dụng nó thì nó không thể tự lộ ra. Ngay cả nếu nó tình cờ xuất hiện, nó cũng sẽ mất đi nhanh chóng bởi không có nền tảng hỗ trợ và nuôi dưỡng nó, cũng như hạt giống đâm chồi lên trong một góc khuất có thể bị chết nhanh vì không có đất và nước tưới đầy đủ.

Điều này cũng được nhắc đến trong Nhập Bồ Tát Hạnh (Bodhisattvacharyavatara) của Đạo sư vĩ đại Tịch Thiên (Shantideva). Ngài nói rằng trong đêm tối mịt, tia chớp là sáng hơn bất kỳ ánh sáng nào trên trái đất, nhưng rồi nó sẽ tắt. Do tình cờ, chúng ta có thể bắt gặp một dạng thuần khiết của khả năng tối thượng của chúng ta, nhưng chúng ta không thể nắm giữ nó. Trong những lần khi xảy ra một vài điều khiến ta cực kỳ sốc và đau khổ, lúc đó có lẽ ở một khoảnh khắc ta hiểu thấu hoặc nhìn ra, hoặc là một thoáng tỉnh thức về một số điều khác hơn bình thường. Nhưng ngay khi nhận thức như thế lắng xuống, nó sẽ trôi qua. Nó không kéo dài. Sự giác ngộ thoáng chốc xảy đến sau nhiều lần hành thiện. Nhưng chúng ta phải giữ giới và thực hành các phương pháp để thiết lập nền tảng cho sự giác ngộ.

Ảnh: nguồn internet

Bài viết liên quan