CÁI THẤY - THIỀN ĐỊNH - HÀNH

CÁI THẤY - THIỀN ĐỊNH - HÀNH

TẠNG THƯ SỐNG CHẾT (Tác phẩm kinh điển về tâm linh, sách bán chạy nhất trên thế giới) - SOGYAL RINPOCHE

Người dịch: Thích Nữ Trí Hải

---o0o---

CÁI THẤYSự thực tập tu luyện Dzogchen được mô tả là “kiến, thiền, hành”. Thấy được một cách trực tiếp trạng thái tuyệt đối: Cảnh, hay nền tảng của bản thể chúng ta – tự tánh, tánh bản nhiên - là Kiến; cái cách để làm cho cái thấy ấy không gián đoạn gọi là Thiền; và hội nhập cái thấy ấy vào trong toàn thể thực tại và cuộc đời chúng ta gọi là Hành.Vậy thì Kiến là gì?...
CÁI THẤY - THIỀN ĐỊNH - HÀNH

CÁI THẤY

Sự thực tập tu luyện Dzogchen được mô tả là “kiến, thiền, hành”. Thấy được một cách trực tiếp trạng thái tuyệt đối: Cảnh, hay nền tảng của bản thể chúng ta – tự tánh, tánh bản nhiên - là Kiến; cái cách để làm cho cái thấy ấy không gián đoạn gọi là Thiền; và hội nhập cái thấy ấy vào trong toàn thể thực tại và cuộc đời chúng ta gọi là Hành.

Vậy thì Kiến là gì? Đấy là thấy được thực trạng của vạn pháp như nó là, đấy là biết được rằng bản tánh thực của tự tâm cũng là bản tánh thực của sự vật, và đấy là nhận thấy rằng bản tánh thực của tâm ta chính là chân lí tuyệt đối. Dudjom Rinpoche nói: “Kiến là sự bao gồm của trạng thái tỉnh thức sơ nguyên, trong đó mọi sự được chứa đựng nhận thức, giác quan và hiện tượng bên ngoài, sinh tử và niết-bàn. Sự tỉnh thức ấy có hai khía cạnh: “không” là cái tuyệt đối, và “tướng” hay nhận thức, là cái tương đối.”

Điều này muốn nói rằng, toàn thể lĩnh vực tướng có thể hiện ra, và tất cả hiện tượng trong mọi thực tại khác nhau, dù sinh tử hay niết-bàn, tất cả vẫn luôn luôn và sẽ mãi mãi toàn vẹn, đầy đủ trong bầu trời bao la của tự tánh tâm. Nhưng mặc dù tinh túy của vạn pháp là trống rỗng và “thanh tịnh từ khởi thủy”, bản chất của nó vẫn đầy đủ đức tánh cao quý sung mãn mọi khả năng. Đó là một môi trường sáng tạo vô biên, năng động không ngừng nghỉ và luôn luôn tự nhiên toàn hảo.

Bạn có thể hỏi: “Nếu trực nhận cái thấy ấy là chứng ngộ bản tâm, thế thì bản tâm là gì?” Hãy tưởng tượng một bầu trời trống rỗng bao la, trong sáng từ khởi thủy, “tinh túy” (Thể) của nó là như thế. Hãy tưởng tượng một mặt trời sáng, trong, không bị mây che, hiện diện một cách tự nhiên: “bản chất” (Tướng) của nó là như thế. Hãy tưởng tượng mặt trời ấy chiếu ra một cách vô tư trên tất cả người, vật, đi vào mọi hướng; “năng lực” (Dụng) của nó biểu hiện của tâm đại bi – là như thế – không gì làm chướng ngại nó được, và nó thâm nhập khắp cả.

Bạn cũng có thể tưởng đến tự tánh tâm như một tấm gương, với năm năng lực hay trí khác nhau. Tính mở rộng bao la của nó, “Pháp giới thể tánh trí”, thai tạng của lòng bi mẫn. Khả năng phản chiếu của tấm gương khiến từng chi tiết đều biểu hiện rõ khi một vật đi qua nó, “Đại viên cảnh trí”. Bản chất không thiên vị chút nào của nó đối với mọi ấn tượng in lên nó, “Bình đẳng tánh trí”. Khả năng phân biệt rõ ràng không lẫn lộn mọi hiện tượng khởi lên, “Diệu quan sát trí”. Và tiềm năng có được mọi sự đã viên thành toàn vẹn, hiện diện tự nhiên, “Thành sở tác trí”.

Trong Dzogchen, “Kiến” được thầy trực tiếp truyền cho môn đệ. Chính cái cách độc đáo của sự điểm đạo này đã làm cho Dzogchen thành đặc biệt, độc nhất vô nhị.

Cái được truyền cho môn đệ trong lúc khai đạo chính là kinh nghiệm trực tiếp về tâm giác ngộ của chư Phật, qua sự ban ân của một bậc thầy, biểu tượng của sự chứng ngộ toàn vẹn. Muốn có thể tiếp nhận được sự khai đạo, người học cần phải đạt đến một giai đoạn trong đó họ vừa có được tâm khoáng đạt, vừa có lòng sùng kính để làm cho họ dễ cảm thụ đối với ý nghĩa chân thực của Dzogchen.

Làm sao tâm giác ngộ của chư Phật có thể truyền được?

Hãy tưởng tượng bản tâm như cái mặt của bạn; nó luôn luôn ở với bạn, nhưng bạn không thấy được nếu không có sự giúp đỡ. Tưởng tượng rằng bạn chưa hề thấy một tấm gương. Sự khai ngộ của vị thầy là như thình lình đưa lên trước mặt bạn một tấm gương và lần đầu tiên bạn thấy được chính cái mặt bạn phản chiếu. Cũng như mặt bạn, sự tỉnh giác thuần túy về Tự tánh tâm không phải là một cái gì bậc thầy mới đem lại cho bạn mà lâu nay bạn không có, đó cũng không là một cái gì mà bạn có thể tìm ở bên ngoài bạn. Nó vẫn luôn luôn là của bạn, nhưng cho đến lúc ấy, bạn chưa từng thực sự nhìn thấy nó một cách trực tiếp.

Patrul Rinpoche giải thích: “Theo truyền thống đặc biệt của những bậc thầy, thì bản tâm được khai ngộ ngay khi tâm phân biệt tan biến.” Trong lúc khai thị, bậc thầy cắt đứt hoàn toàn cái tâm phân biệt để bày ra tự tánh nguyên sơ của tâm, gọi là tính giác, Rigpa, hiển thị bản chất thực của nó một cách rõ ràng.

Trong giây phút mãnh liệt ấy, có một sự hòa nhập giữa tâm và trí xảy ra, người học có ngay kinh nghiệm không chối cãi được về tự tánh, bản chất Rigpa. Trong cùng một giây phút ấy, thầy khai thị và trò chứng ngộ. Khi vị thầy hướng ân sủng của mình do trí giác của ông về tự tính – vào tự tính tâm của đệ tử, là thầy trực chỉ cho đệ tử bản lai diện mục của y.

Tuy nhiên, muốn cho sự khai ngộ của thầy được hoàn toàn công hiệu, thì cần phải tạo cho đúng điều kiện và môi trường thích hợp. Trong lịch sử chỉ có một số ít người đặc biệt, nhờ nghiệp đã thanh tịnh, mới có thể trực nhận bản tâm và ngộ ngay tức khắc. Phần đông số còn lại thì sự khai thị phải luôn luôn được chuẩn bị bởi một số điều kiện trước đấy. Chính những chuẩn bị này tịnh hóa, lột hết cái tâm phàm, đưa bạn đến trạng thái trong đó tâm bản nhiên có thể được khai thị cho bạn.

Trước tiên thiền định – phương thuốc chữa bệnh phân tán – đưa tâm về nhà, khiến nó có thể an trú trong trạng thái tự nhiên.

Thứ hai, những thực tập sâu xa về thanh luyện – tăng cường thiện nghiệp nhờ tích lũy công đức và trí tuệ - làm mòn, tiêu mất những tấm màn cảm xúc và tri thức che khuất bản tánh tự nhiên của tâm. Thầy tôi đã viết: “Khi những chướng ngại ngăn che đã được tẩy trừ, thì trí tuệ bản nhiên của tự tánh sẽ chiếu sáng”. Những thực tập để thanh luyện này, tiếng Tây Tạng gọi là Ngondro, đã được thiết kế khéo léo để đem lại một sự chuyển hóa nội tâm toàn vẹn. Chúng bao quát toàn bản thể – thân, ngữ, ý – và khởi sự bằng một quán sát sâu xa về:

- Tính độc nhất vô nhị của đời người

- Tính thường tại của vô thường và chết

- Tính nhân nào quả nấy của mọi hành vi

- Vòng lẩn quẩn đau khổ của luân hồi sinh tử

Những tư duy này gợi lên ý thức mãnh liệt về “từ bỏ”, một ước muốn cấp thiết để ngoi lên khỏi sinh tử và đi theo con đường giải thoát. Đây là nền tảng cho sự thực hành đặc biệt, gồm có:

- Quay về nương tựa Phật, chân lí trong lời dạy của Ngài, và tấm gương của những hành giả đã thực hành giáo lí ấy, và nhờ vậy đánh thức niềm tin vào Phật tính ở trong ta.

- Nảy sinh lòng bi mẫn (hay tâm Bồ-đề, trái tim của trí giác, sẽ giải thích ở chương 12), luyện tâm để làm việc với chính mình và người khác, và những khó khăn trong đời.

- Tẩy trừ những chướng ngại và cấu uế nhờ quán tưởng và trì chú để thanh lọc và chữa lành thân tâm.

- Tích lũy công đức và trí tuệ bằng cách phát triển bố thí và tạo thành những hoàn cảnh lành tốt.

Tất cả những thực tập nói trên hợp thành, xoay quanh pháp Đạo sư Du-già, phương pháp căn bản mãnh liệt cảm động hơn tất cả, tối cần thiết để mở mang tâm trí hầu trực nhận trạng thái thiền.

Thứ ba, một tra tầm đặc biệt đi sâu vào bản chất của tâm và các tướng sẽ làm kiệt quệ sự không ngừng theo đuổi tư duy tìm kiếm của tâm, sự lệ thuộc đủ thứ khái niệm, phân tích, tham khảo của nó, và đánh thức sự chứng nhập bản chất chân không.

Những chuẩn bị ấy vô cùng quan trọng, cần được thực hiện song hành một cách có hệ thống, để làm cho người học trò có thể đánh thức bản tâm, sẵn sàng cho thời điểm được thầy khai thị bản lai diện mục.

Nyoshul Lungtok, về sau trở thành một trong những đạo sư vĩ đại về thiền đốn ngộ trong thời hiện đại, đã theo thầy Patrul trong 18 năm. Suốt thời gian ấy, hai thầy trò không rời nhau. Nyoshul học và hành rất chuyên cần, đã tích lũy một kho công đức, thực tập và tịnh hóa, sẵn sàng để nhận ra bản tâm, nhưng vẫn chưa được thầy khai thị. Rồi vào một buổi chiều, Patrul Rinpoche đã khai thị cho ông. Việc ấy xảy ra vào lúc họ cùng ở lại trong một am ẩn cư trên núi, phía trên ngôi tu viện. Đấy là một đêm đẹp trời. Bầu trời xanh thẳm sáng lên dưới ánh sao lấp lánh. Âm thanh tịch mịch càng tăng thêm bởi tiếng chó sủa xa xa. Patrul Rinpoche đang nằm dài dưới đất, thực tập một kiểu tu Dzogchen đặc biệt. Ngài gọi Nyoshul đến bảo:

-  Có phải ông bảo là ông chưa biết tự tánh tâm là gì hay không? Nyoshul đoán biết qua giọng nói của thầy rằng đấy là một giây phút nghiêm trọng. Ông gật đầu chờ đợi. Patrul Rinpoche nói:

- Kì thực thì không có gì.

Ngài nói bâng quơ và thêm:

- Này con, hãy tới nằm đây như cha già của con.

Nyoshul tiến đến, duỗi dài cạnh ông, Patrul hỏi:

- Con có thấy những vì sao trên trời không?

- Có

- Con có nghe chó sủa phía dưới tu viện không?

- Có

- Con có nghe ta nói gì với con không?

- Có.

- Được rồi, tự tánh tâm, bản chất của Dzogchen, chỉ là thế đấy.

Nyoshul kể lại những gì xảy ra lúc đó: “Ngay khi ấy, tôi đạt đến một sự chắc chắn của thực chứng nội tâm. Tôi đã thoát khỏi xiềng xích của “phải” và “không phải”. Tôi đã nhận chân trí giác nguyên thủy, sự hợp nhất đơn thuần giữa Không với trực giác nội tại. Tôi được khai ngộ nhờ ân phước của thầy, như Saraha – bậc thầy vĩ đại của Ấn-độ - đã nói:

Kẻ nào mà lời thầy đã thâm nhập vào tâm

Sẽ thấy được chân lí như ngọc trong lòng tay.

Vào lúc ấy mọi sự hiển bày, kết quả bao năm tu tập, thanh luyện đã phát sinh. Nyoshul đã chứng ngộ bản tánh. Không có gì phi thường trong lời lẽ mà bậc thầy đã sử dụng, chúng kì thực rất bình thường, nhưng ngoài lời lẽ, một cái gì khác đã được truyền thông. Cái mà bậc thầy khai thị là bản chất nội tại của mọi sự chính là ý nghĩa chân thật của Dzogchen. Vào lúc này bậc thầy đã đưa đệ tử vào trạng thái chứng ngộ qua năng lực gia trì của sự thực chứng nơi ngài.

Nhưng các bậc thầy không giống nhau, họ có thể dùng đủ mọi phương tiện thiện xảo để tạo ra sự thay đổi tâm lí ấy nơi đệ tử. Patrul Rinpoche chẳng hạn, đã được khai ngộ bằng một cách lạ lùng bởi vị thầy quái dị tên Do Khyentse, mà tôi được nghe truyền tụng như sau:

Patrul Rinpoche đang tu một phép quán yoga cao cấp và bị kẹt, không một đồ hình nào về chư thiên hiện ra trong tâm ông. Một hôm, ông đi đến thầy đang ngồi uống trà bên đống lửa đốt giữa trời. Ở Tây Tạng, khi bạn thấy một bậc thầy mà mình kính trọng thì bạn lạy dài. Khi Patrul Rinpoche khởi sự lạy từ xa, thì Do Khyentse điểm mặt ông mà gầm lên:

- Ê, con chó già kia, có giỏi thì cứ đến đây!

Do Khyentse có dáng vóc một hiệp sĩ dữ tợn với tóc xõa dài, áo quần xốc xếch, ưa cưỡi ngựa. Khi Patrul Rinpoche tiếp tục lạy và tiến gần ông, ông luôn mồm chửi rủa và ném sỏi, đá càng lúc càng lớn, cho đến khi Patrul tới trong tầm tay thì ông quật ngã ngất xỉu. Khi tỉnh dậy, Patrul ở trong một trạng thái tâm khác hẳn. Những đồ hình lâu nay quán không được bỗng nhiên hiện rõ cho ngài. Mỗi câu chửi và nhục mạ của vị thầy đã phá tan những dư tàn trong tâm phân biệt của người đệ tử, và mỗi cục đá trúng người ông đã mở những huyệt đạo bế tắc trong cơ thể ông. Trong hai tuần kì diệu tiếp theo, những hình ảnh của đồ hình đã không rời ông.

Bây giờ tôi sẽ cố đưa ra một vài ý nghĩa Kiến là gì, nó ra sao khi đã trực ngộ bản tâm, mặc dù thực sự thì không ngôn từ phân biệt nào mô tả được điều ấy.

Dudjom Rinpoche nói lúc đó giống như cất một cái mồng ra khỏi đầu bạn, thật là nhẹ nhõm khoáng đạt vô biên. Đây là cái Thấy tối thượng, thấy cái chưa từng thấy trước đây. Khi bạn “thấy được cái chưa từng thấy” thì mọi sự mở ra, trải rộng, rõ ràng, đầy sức sống, lạ lùng, tươi mát. Nó như thể là một cái mái vừa bay khỏi tâm bạn, hay một bầy chim thình lình bay ra từ một cái tổ đen tối. Mọi sự hạn cuộc trong đời đều tan biến, rơi rụng, “như xé một dấu niêm phong”, người Tây Tạng thường nói.

Tưởng tượng bạn đang ở trong một ngôi nhà, trên đỉnh một ngọn núi cao nhất thế giới. Thình lình, toàn bộ ngôi nhà đã ngăn bít nhãn quan của bạn bấy lâu bỗng sụp đổ, làm cho bạn thấy được mọi sự vật xung quanh, trong và ngoài. Nhưng kì thực không có vật gì để thấy; những gì xảy ra không thể so sánh với bất cứ gì thường ngày; đấy là một sự “thấy” toàn vẹn, đầy đủ, chưa từng có trước kia.

Dudjom Rinpoche bảo: “Kẻ thù nguy hiểm nhất của bạn đã trói bạn vào vòng sinh tử từ vô lượng kiếp đến nay, chính là sự chấp thủ và cái bị chấp thủ.” Khi bậc thầy khai thị và bạn nhận được, thì hai thứ đó bị đốt sạch như lông chim trong ngọn lửa, không còn dấu vết. Cả sự chấp thủ và cái bị chấp thủ, vật bị chấp thủ và con người chấp thủ được giải phóng trọn vẹn từ căn bản. Căn nguyên của vô minh đau khổ hoàn toàn khô kiệt. Và mọi sự xuất hiện như bóng trong gương, trong suốt, long lanh và như huyễn.

Khi bạn tự nhiên đạt đến trạng thái thiền định ấy, khởi hứng bởi Kiến, thì bạn có thể an trú rất lâu, không xao lãng, không cần nỗ lực. Khi ấy không có gì gọi là “thiền định” để bảo vệ và giữ gìn, vì bạn đang ở trong trạng thái dòng tuệ giác tự nhiên gọi là Rigpa. Và khi ở trong đó, thì bạn thấy nó vẫn luôn luôn như vậy rồi. Khi trí giác bản nhiên chiếu sáng, thì không một bóng tối hoài nghi nào có thể còn lại, và một tri kiến sâu xa, toàn vẹn sinh khởi trực tiếp, không nỗ lực.

Bạn sẽ thấy tất cả những hình ảnh và ẩn dụ tôi đã dùng, tan hòa thành một kinh nghiệm bao quát về chân lí. Sự sùng kính ở trong trạng thái ấy, tâm đại bi ở trong trạng thái ấy, và tất cả tuệ giác, phúc lạc, sáng sủa, vô tưởng, tất cả hòa nhập với nhau, liên kết với nhau thành một vị duy nhất. Lúc ấy là lúc giác ngộ. Một năng khiếu hài hước sâu xa tuôn phát từ trong tâm, khiến bạn mỉm cười trước khái niệm tư duy trật lất của mình bấy lâu về tự tánh tâm như thế nào. Từ đấy phát sinh một niềm tin không thể lay chuyển, một xác tín rằng “nó đây rồi”: Không còn gì khác để tìm kiếm, không còn gì hơn thế để mà hi vọng. Tính chắc chắn của Kiến này là cái cần làm cho sâu xa bằng cách liên tục nhìn vào tự tánh của tâm, nó cần được an trú qua kỉ luật thiền định.

THIỀN ĐỊNH

Thế thì thiền định trong Dzogchen nghĩa là gì? Đấy chỉ là an trú trong KIẾN không xao lãng, một khi đã được khai thị. Dudjom Rinpoche mô tả: “Thiền là trú tâm vào trạng thái Tâm bản lại (Rigpa), không hết thảy mọi tạo tác của tâm, trong khi hoàn toàn buông xả, không xao lãng cũng không bám víu.” Vì người xưa đã nói rằng: “Thiên không phải là nỗ lực, mà tự nhiên thấm vào trong đó.”

Toàn thể mục đích của thiền trong pháp tu Dzogchen là tăng cường và an trú trạng thái Tâm bản nhiên (Rigpa), khiến cho nó phát triển toàn vẹn. Cái tâm bình thường theo tập quán, đầy những dự phóng, thật là mãnh liệt vô cùng. Nó cứ luôn luôn trở lại, và tóm lấy ta một cách dễ dàng khi ta không chú ý, hoặc xao lãng. Dudjom Rinpoche thường nói: “Bây giờ tâm bản nhiên (Rigpa) của ta như một hài nhi bé bỏng bị mắc kẹt trên một bãi chiến trường vọng tưởng nổi lên rất mạnh”. Tôi muốn nói rằng chúng ta khởi sự công việc “giữ em”, giữ cái Tâm bản nhiên ở trong môi trường bảo đảm của thiền định.

Nếu thiền định chỉ là tiếp tục dòng Tâm bản nhiên sau khi đã được khai thị, thì làm sao ta biết được lúc nào đó là Tâm bản nhiên, lúc nào không phải Tâm bản nhiên? Tôi đã hỏi Dilgo Khyentse Rinpoche câu ấy, và ngài đã trả lời với sự giản dị đặc biệt nơi ngài: “Nếu con ở trong tâm trạng không thay đổi, đó là Tâm bản nhiên”. Nếu chúng ta không vẽ rắn thêm chân, lèo lái cái tâm bằng bất cứ cách nào, mà an trú trong trạng thái bất biến, sự tỉnh giác thuần tịnh của nó, thì đấy là Tâm bản nhiên. Nếu có một sự gượng ép nào, một lèo lái nào, một bám víu nào của ta, thì đó không phải là Tâm bản nhiên. Tâm bản nhiên là một trạng thái trong đó không còn một hoài nghi nào, thực sự không có cái tâm nào để hoài nghi. Bạn thấy một cách trực tiếp. Nếu bạn ở trong trạng thái ấy, thì một niềm vui, một xác tín tự nhiên khởi lên cùng với Tâm bản nhiên, làm cho bạn biết.

Truyền thống Dzogchen là một truyền thống cực kì minh bạch, vì càng đi sâu càng có thể khởi lên vọng tưởng vi tế, và cái đang cần là tri kiến về thực tại tuyệt đối. Ngay cả sau khi khai thị, vị thầy vẫn còn giải rõ chi tiết những trạng thái không phải là thiền Dzogchen và không được lầm lẫn. Một trong những trạng thái đó là, bạn trôi dạt vào “một cõi đất không thuộc về đâu”, trạng thái tâm đó không có tư tưởng, không kí ức, một trạng thái thờ ơ, đen tối, chán chường, ở đó bạn chìm lại vào trong nền tảng của tâm phàm tình. Trong trạng thái thứ hai, có một chút yên lặng và hơi sáng sủa, nhưng là một thứ yên lặng trầm trệ, vẫn còn vùi trong tâm phàm tình. Trong một trạng thái thứ ba, bạn cảm nghiệm một sự vắng bóng tư tưởng, nhưng lại rơi vào không gian trống rỗng lạ lùng. Trong một trạng thái thứ tư, tâm bạn đi lang thang, chạy theo những tư tưởng dự phóng. Không có trạng thái nào trong đấy là thiền định thật sự, và hành giả cần phải xem chừng một cách thiện xảo để tránh bị lừa dối bằng những cách ấy.

Tinh yếu của hành thiền Dzogchen được đề ra trong bốn điểm sau:

- Khi một niệm quá khứ đã chấm dứt mà niệm vị lai chưa sanh, trong khoảng hở đó giữa hai niệm, có phải là có một ý thức về thực tại, mới mẻ, nguyên sơ, không bị thay đổi bởi một tơ tóc khái niệm nào, thuần là một sự tỉnh giác nguyên vẹn hay không? Đấy, Tâm bản nhiên là thế đấy!

- Tuy nhiên nó không ở mãi trong trạng thái như vậy, phải chăng bởi vì một niệm khác lại khởi lên?

Đấy chính ánh sáng chiếu ra của Tâm bản nhiên.

- Nhưng nếu bạn không nhận ra niệm ấy đúng như bản chất của nó ngay khi nó khởi, thì nó sẽ trở thành một ý tưởng khác, như trước. Đây gọi là “dây chuyền vọng tưởng”, và là nguồn gốc của sinh tử.

- Nếu bạn có thể nhận chân được bản chất thật sự của ý tưởng (niệm) ngay khi nó khởi lên, và cứ để yên nó, đừng theo đuổi thêm, thì bất cứ ý tưởng nào khởi lên đều tự động tan trở lại vào trong khoảng bao la của Tâm bản nhiên, và được giải thoát.

Đương nhiên cần cả một đời tu tập mới hiểu và nhận chân được tính phong phú và vĩ đại của bốn điều giản dị mà thâm sâu này. Ở đây tôi chỉ có thể cho bạn nếm qua một chút vị của cái khoáng đạt của thiền Dzogchen là như thế nào.

Có lẽ điểm quan trọng nhất là Dzogchen trở thành một dòng liên tục của Tâm bản nhiên, như một con sông chảy liên tục ngày đêm không gián đoạn. Dĩ nhiên đây là trạng thái lí tưởng, vì sự an trụ vào kiến một cách không xao lãng ấy, sau khi được khai thị và nhận chân, chính là phần thưởng của nhiều năm tu tập kiên trì.

Thiền Dzogchen rất hiệu lực trong công việc xử lí những sanh khởi của tâm và có cái nhìn độc đáo về những sanh khởi ấy. Mọi sự khởi tâm đều được thấy trong bản chất thật của chúng, nghĩa là không rời Tâm bản nhiên và không chống chọi với nó, mà kì thực không gì khác hơn - và điều này rất quan trọng - là những tia tự chiếu của Tâm bản nhiên, những biểu hiện năng lực của nó.

Giả sử bạn thấy mình ở trong một trạng thái yên lặng sâu xa; thông thường trạng thái ấy không kéo dài, một ý niệm, một chuyển động luôn luôn khởi lên, như sóng trong biển. Đừng chối bỏ sự chuyển động hay đặc biệt ôm lấy sự yên tĩnh, mà cứ tiếp tục dòng hiện trú thuần túy ấy của tâm bạn. Trạng thái an bình lan khắp của thiền định ấy chính là Tâm bản nhiên, mọi sự khởi lên trong tâm không gì khác hơn là tâm ấy chiếu ra. Đây là trái tim, là nền tảng của pháp hành thiền Dzogchen. Một cách để tưởng tượng điều này là, như thể bạn đang cưỡi trên tia mặt trời để trở về mặt trời. Bạn theo dõi ngay những niệm khởi trở về căn nguyên của chúng, nền tảng Tâm bản nhiên. Khi bạn thể hiện sự bền vững của tri kiến, thì bạn không còn bị đánh lừa và chia trí bởi bất cứ gì sanh khởi, và do đó không thể làm mồi cho vọng tưởng.

Dĩ nhiên trong biển có sóng to, sóng nhỏ; có những cảm xúc mạnh kéo đến như giận dữ, dục vọng, ganh tị. Hành giả thực thụ sẽ nhận chân những thứ này không phải quấy rầy hay chướng ngại, mà là một cơ hội lớn. Phản ứng lại những sinh khởi như thế với khuynh hướng thông thường là chấp nhận và chối bỏ chính là dấu hiệu chứng tỏ không những bạn chia trí, mà còn không nhận ra được, và đã mất dấu Tâm bản nhiên. Phản ứng lại những cảm xúc bằng cách đó thì chỉ làm cho chúng có thêm năng lực và trói buộc chúng ta chặt chẽ hơn vào dây xích vọng tưởng. Bí quyết lớn của Dzogchen là nhìn suốt những cảm xúc khi chúng khởi lên, để thấy mặt thực của chúng là biểu hiện sống động như điện chớp của chính năng lực Rigpa, Tâm bản nhiên. Khi bạn tập dẫn cách làm này, thì ngay cả những cảm xúc rầy rà nhất cũng không thể tóm lấy bạn, mà tan biến như sóng lớn dậy lên rồi lùi lại và chìm vào đại dương yên tĩnh.

Hành giả khám phá - và đây là một cái nhìn đảo lộn, mà sự vi tế và năng lực của nó không thể suy lường - rằng không những cảm xúc mạnh không thể kéo bạn đi, lôi bạn trở lại vào dòng nước xoáy của sự thác loạn trong bạn, mà chúng có thể thực sự hữu ích để đào sâu, làm mạnh thêm, tăng cường Rigpa, trạng thái Tâm bản nhiên. Năng lực vũ bão trở thành nguyên liệu để nuôi dưỡng cái năng lượng đã được đánh thức của Tâm bản nhiên. Cảm xúc càng mạnh, càng bốc lửa, thì trạng thái Tâm bản nhiên càng được tăng cường. Tôi thấy rằng phương pháp độc đáo này của Dzogchen có mãnh lực ghê gớm để giải tỏa ngay cả những vấn đề tâm lí và cảm xúc đã ăn sâu, thâm căn cố đế.

Bây giờ tôi xin đưa ra cho bạn một lối giải thích giản dị về tiến trình này hoạt động ra sao. Điều này sẽ vô giá về sau, khi ta xét đến những gì xảy ra vào lúc chết.

Trong Dzogchen, bản chất nội tại tự nhiên của mọi sự gọi là “Ánh sáng căn bản”, hay “Ánh sáng Mẹ”. Nó lan khắp lĩnh vực kinh nghiệm của chúng ta, và bởi thế cũng là bản chất nội tại của những tư tưởng và cảm xúc khởi lên trong tâm ta nữa, mặc dù chúng ta không nhận ra điều đó. Khi bậc thầy khai thị cho chúng ta bản tính chân thật của tâm, tức là trạng thái Rigpa hay Tâm bản nhiên, thì điều ấy giống như thầy cho ta một cái chìa khóa. Trong Dzogchen, chúng ta gọi chìa khóa ấy - sẽ mở cho chúng ta đến tri kiến toàn vẹn - là “Ánh sáng đạo lộ” hay “Ánh sáng con”. Ánh sáng căn bản và ánh sáng đạo lộ thực ra chỉ là một, nhưng vì mục đích giảng dạy mà được phân ra như thế. Nhưng một khi có được chìa khóa Ánh sáng đạo lộ nhờ sự khai thị của bậc thầy, thì ta có thể tha hồ sử dụng nó để mở cánh cửa vào Bản tánh tự nhiên của thực tại - sự mở cửa này được gọi theo Dzogchen là “Gặp gỡ giữa Ánh sáng căn bản và Ánh sáng đạo lộ”, hay “Mẹ con gặp gỡ”. Một cách nói khác là, vừa khi một ý tưởng hay cảm xúc khởi lên, Ánh sáng đạo lộ - Rigpa - nhận ra ngay bản chất của nó, tính nội tại của nó, là Ánh sáng căn bản. Trong giây phút nhận ra nhau ấy, hai ánh sáng tan hòa vào nhau, tư tưởng và cảm xúc được giải phóng ngay tại nền tảng của nó.

Điều cốt yếu là kiện toàn sự tập luyện hội nhập hai ánh sáng này và giải tỏa những móng tâm động niệm ngay khi đang sống, bởi vì, điều xảy ra vào lúc chết, với tất cả mọi người là: Ánh sáng căn bản xuất hiện trong vẻ huy hoàng rộng lớn, và mang theo nó một cơ hội để giải thoát hoàn toàn - nếu, và chỉ nếu, bạn đã biết làm thế nào để nhận ra nó.

Có lẽ đến đây, điều rõ ràng là sự tan hòa hai ánh sáng và tự hóa giải mọi ý tưởng cảm xúc, chính là thiền định ở tầng sâu xa nhất của nó. Kì thực thì danh từ “thiền định” quả không thích hợp với pháp hành trì Dzogchen, vì thiền định bao hàm sự tư duy về một cái gì, mà trong Dzogchen thì tất cả chỉ là và luôn luôn là Tâm bản nhiên. Bởi thế, không có vấn đề một sự thiền định tách rời với sự an trú cái hiện diện thuần túy của Tâm bản nhiên.

Danh từ duy nhất có thể diễn đạt được cái này là Không-Thiền. Trong trạng thái ấy, theo lời các bậc thầy, dù bạn có đi tìm vọng tưởng cũng không còn sót lại cái nào. Cho dù bạn muốn kiếm một hòn sỏi bình thường trên một hòn đảo vàng ngọc, thì bạn cũng không cách nào tìm được. Khi Kiến đã hiện diện liên tục, dòng Tâm bản nhiên không gián đoạn, sự hòa nhập hai Ánh sáng là tự nhiên, liên tục, thì mọi vọng tưởng khả hữu đều được giải tỏa ngay tại gốc của nó, và toàn thể nhận thức của bạn khởi lên liên tục là Tâm bản nhiên.

Những bậc thầy nhấn mạnh rằng: muốn ổn định Kiến trong thiền định, điều cốt yếu trước hết là hoàn tất sự luyện tập này trong một khung cảnh đặc biệt của nhập thất, ở đấy mọi điều kiện thuận lợi đều sẵn có. Còn ở giữa sự tán loạn rộn ràng của thế gian, thì dù bạn có thiền bao nhiêu, kinh nghiệm thực thụ cũng không phát sinh được trong tâm bạn. Thứ hai, mặc dù trong Dzogchen không có sự khác biệt giữa thiền và đời sống thường nhật, song khi bạn chưa có được sự an trú thực vững vàng nhờ thiền tập vào những thời khóa hẳn hoi, thì bạn không thể nào hội nhập tuệ giác của thiền định vào kinh nghiệm hàng ngày. Thứ ba, ngay cả khi bạn thực hành, bạn có thể an trú dòng tương tục Tâm bản nhiên với niềm tin của Kiến; nhưng nếu bạn không thể tiếp tục dòng ấy vào mọi lúc và mọi tình huống, hòa lẫn sự tu tập với đời sống hàng ngày của bạn, thì nó sẽ không làm phương thuốc cứu bạn được, mỗi khi hoàn cảnh khó chịu khởi lên, và bạn sẽ bị ý tưởng, cảm xúc dẫn cho lạc vào mê vọng.

Có câu chuyện thú vị về một hành giả Dzogchen sống không khoe khoang, nhưng lại có một đám đông đồ đệ. Có một thầy tu rất kiêu hãnh về học vấn đa văn của mình, đâm ra ganh tị với hành giả mà ông ta biết là không đọc sách nhiều. Ông ta nghĩ “Sao một người tầm thường như thế dám dạy đệ tử? Sao y dám tự xưng thầy? Ta sẽ đến thử tri kiến của y, cho lộ cái sự giả dối của y, và làm nhục y trước mặt đệ tử, để bọn này bỏ y mà theo ta.” Bởi vậy, y đến viếng vị hành giả, và hỏi với vẻ khinh miệt:

- Này đồng bạn Dzogchen, có phải ông chỉ có thiền mà thôi không?

Vị hành giả trả lời một câu hoàn toàn bất ngờ:

- Có gì để thiền?

Vị học giả nói một cách đắc thắng:

- Thế thì ông không thiền định gì cả sao?

Vị hành giả đáp:

- Nhưng có bao giờ tôi tán loạn đâu?

HÀNH

Khi sự an trú trong Tâm bản nhiên trở nên một thực tại, thì nó bắt đầu thấm nhuần sự sống và hành động hàng ngày của hành giả, nuôi dưỡng một sự ổn định và niềm tin sâu xa. Dudjom Rinpoche nói:

Hành có nghĩa là thật sự ngắm nhìn những ý tưởng của chính bạn, xấu hay tốt, nhìn suốt bản chất thực sự của bất cứ ý tưởng nào có thể khởi lên, không truy tầm quá khứ, cũng không mời gọi tương lai, không để cho tâm bám víu vào một kinh nghiệm hạnh phúc, cũng không để nó tràn ngập bởi những tình cảnh đau buồn. Khi làm như vậy, bạn cố đạt đến và an trú trong đại xả, trong đó mọi sự tốt xấu, an nguy đều không có lai lịch gì chân thực.

Sự trực ngộ Kiến một cách tinh vi toàn triệt sẽ thay đổi cái nhìn của bạn đối với sự vật. Càng ngày tôi càng nhận rõ rằng chính ý tưởng và khái niệm đã ngăn cản không để cho chúng ta luôn an trú trong tuyệt đối. Bây giờ tôi mới hiểu vì sao thầy tôi thường dạy: “Hãy cố gắng đừng tạo ra quá nhiều hi vọng hay lo sợ”, vì chúng chỉ tổ gây thêm sự bám víu trong tâm. Khi Kiến có mặt, thì những ý tưởng được nhìn thấy đúng như bản chất chúng, đó là phù du, trong suốt, và chỉ có tính cách tương đối. Bạn thấy suốt mọi sự một cách trực tiếp, như thể là bạn có con mắt X-quang. Bạn không bám víu, cũng không xua đuổi những ý tưởng cảm xúc, mà chào đón tất cả chúng trong vòng ôm lớn rộng của Tâm bản nhiên. Những gì mà trước đây bạn coi là rất quan trọng - những tham vọng, kế hoạch, mong đợi, hoài nghi, đam mê - không còn khống chế bạn một cách sâu xa nữa, vì chánh kiến đã giúp bạn thấy được cái trống rỗng, phi lí của tất cả chúng, nhờ vậy phát sinh trong bạn một tinh thần từ bỏ thật sự.

An trú trong niềm tin và ánh sáng của Tâm bản nhiên làm cho những ý tưởng cảm xúc của bạn được giải tỏa một cách tự nhiên không cần nỗ lực, vào trong không gian rộng lớn của tự tính Tâm, giống như là viết chữ trên nước hay vẽ trên nền trời. Nếu bạn thật sự tu tập như thế đến chỗ toàn vẹn thì nghiệp không còn cơ hội để tích lũy, và trong trạng thái buông xả hoàn toàn ấy, định luật nhân quả trong vòng nghiệp báo không còn cách nào trói buộc bạn.

Đừng tưởng điều ấy dễ. Thật vô cùng gay go để an trú không xao lãng trong Tự tánh của tâm, dù chỉ trong chốc lát, chứ đừng nói đến giải tỏa một ý niệm hay cảm xúc ngay khi nó sinh khởi. Chúng ta thường cho rằng chỉ vì mình hiểu được một điều gì trên phương diện tri thức, hoặc tưởng mình đã hiểu, mà việc ấy có nghĩa rằng mình đã thật sự đạt ngộ. Đấy là một ảo tưởng lớn lao. Cần phải có sự chín mùi, thuần thục của sự tu tập, qua nhiều năm học lắng nghe, tư duy, quán tưởng, thiền định và thực hành kiên trì. Và nhất là sự thực hành Dzogchen luôn luôn cần sự hướng dẫn và khai đạo của một bậc thầy đủ tư cách.

Nếu không, thì sẽ có một mối nguy mà truyền thống này gọi là “Kiến nuốt mất Hành”. Một giáo lí cao siêu mãnh liệt như Dzogchen kéo theo một nguy cơ trầm trọng. Khi tự lừa dối mình - tưởng mình đã giải thoát hết tư tưởng cảm xúc, mà kì thực tuyệt nhiên bạn chưa có khả năng làm chuyện ấy, hoặc tưởng mình đang hành động một cách tự nhiên như thiền sư Dzogchen thực thụ - thì bạn chỉ có đang kết nạp, tích lũy vô số ác nghiệp. Như Padmasambhava nói, và điều này tất cả chúng ta đều nên có, là:

Mặc dù Kiến ta bao la như bầu trời

Mà hành động và niềm tôn kính đối với nhân quả nơi ta nhỏ nhiệm, vi tế như hạt bụi.

Những bậc thầy trong truyền thống Dzogchen vẫn thường nhấn mạnh rằng, nếu không hoàn toàn quen thuộc -một cách sâu xa với “tinh yếu và phương pháp tự giải thoát” nhờ thực tập lâu dài, thì thiền “chỉ có đi sâu thêm vào con đường hư vọng”. Điều này có vẻ gay cấn, nhưng thực sự là thế, bởi vì chỉ có nhờ liên tục tự giải tỏa tư tưởng mới thực sự chấm dứt được sự thống trị của hư vọng và che chở bạn khỏi ngụp lặn trong đau khổ và loạn thần kinh. Nếu không có phương pháp tự giải tỏa thì bạn sẽ không thể nào chống chọi những bất hạnh và hoàn cảnh xấu mỗi khi gặp phải; và dù có thiền định, bạn vẫn bị những cảm xúc mạnh như giận dữ, ham muốn hoành hành. Mối nguy hiểm của những loại thiền khác không theo phương pháp này là chúng trở thành giống như “thiền định của chư thiên”, dễ dàng lạc vào trạng thái đăm chiêu trịnh trọng, hoặc xuất thần thụ động, hoặc trống rỗng, không thứ nào trong đây tấn công và đánh tan vọng tưởng tận gốc rễ.

Bậc thầy Dzogchen vĩ đại, Vimalamitra nói về những cấp độ của tính tự nhiên trong sự giải thoát này một cách minh bạch nhất: lúc mới làm chủ được công phu này, sự giải thoát xảy ra đồng thời với sự sanh khởi, giống như nhận ra người quen trong đám đông. Khi thuần thục đi sâu vào công phu, thì giải thoát xảy ra đồng thời với sự khởi lên những ý tưởng và cảm xúc, như một con rắn mở ra những khoanh cuộn tròn của nó. Và trong trạng thái cuối cùng của sự làm chủ pháp môn này, thì giải thoát ví như một kẻ trộm đi vào ngôi nhà trống, dù cái gì khởi lên cũng không có hại hay có lợi gì cho một hành giả thực thụ.

Ngay cả trong một hành giả Dzogchen cao cấp nhất, nỗi buồn, niềm vui, hi vọng, sợ hãi vẫn còn nổi lên như trước. Cái khác nhau giữa một người thường với một hành giả là cái cách họ nhìn những cảm xúc của họ và phản ứng đối với những cảm xúc đó. Một người thường sẽ theo bản năng mà chấp nhận hay chối bỏ ngay những cảm xúc, và thế là khởi dậy ràng buộc hoặc chán ghét, kết quả là tích lũy thêm ác nghiệp. Nhưng một hành giả Dzogchen thì nhận ra mọi sự khởi lên trong trạng thái trong sáng tự nhiên của nó, không để cho sự chấp thủ khởi lên trong nhận thức của mình.

Dilgo Khyentse Rinpoche mô tả một hành giả lang thang qua một khu vườn. Ông hoàn toàn tỉnh giác trước vẻ đẹp huy hoàng của những đóa hoa, thưởng thức màu sắc, hình dáng, mùi hương của chúng. Nhưng không có “hậu ý” nào trong tâm. Như Dudjom Rinpoche nói:

Bất cứ nhận thức gì khởi lên, bạn hãy nên làm như một đứa trẻ đi vào ngôi chùa trang hoàng lộng lẫy. Nó nhìn và sự bám víu tuyệt nhiên không đi vào nhận thức của nó. Cứ thế, bạn để mọi sự vật ở nguyên trong trạng thái mới mẻ, tự nhiên, sống động và vô nhiễm của nó. Khi bạn để mọi sự ở nguyên trạng thái của nó, thì hình dáng nó không thay đổi, màu sắc của nó không phai nhạt, vẻ sáng sủa của nó không biến mất. Bất cứ gì xảy đến không bị ô nhiễm bởi chấp thủ nào, bởi thế tất cả những gì bạn thấy đều khởi lên như là tuệ giác trần trụi của Tâm bản nhiên (Rigpa), và vốn là sự bất khả phân của ánh sáng và hư không.

Sự hài lòng, tin tưởng, sự trong sáng khoáng đạt, sức mạnh và tính hài hước sâu xa, niềm xác tín khởi lên do sự trực nhận chánh kiến về Tâm bản nhiên, là kho tàng vĩ đại nhất của cuộc đời, là hạnh phúc tối thượng, mà một khi đã đạt đến thì không gì có thể phá hủy, ngay cả cái chết.

Dilgo Khyentse Rinpoche nói:

Một khi bạn đã có chánh kiến, thì dù cho những nhận thức lừa dối của sinh tử vẫn còn khởi lên trong tâm, bạn vẫn như bầu trời: khi một cầu vồng xuất hiện trước mặt, nó không lấy làm hãnh diện, mà khi mây mù xuất hiện, nó cũng không lấy làm buồn bực. Có một cảm giác sâu xa về sự hài lòng. Bên trong bạn cười thầm khi thấy mặt tiền của niết-bàn và sinh tử. Chánh kiến làm cho bạn luôn luôn vui vẻ, một nụ cười hàm tiếu luôn nở trong tâm.

Dudjom Rinpoche nói: “Khi đã thanh lọc ảo tưởng lớn, bóng đen của tâm thức, thì tia sáng của mặt trời không bị ngăn bít, cứ liên tục chiếu ra.”

Người nào để trong tâm sự chỉ dạy trong quyển sách này về Dzogchen và thông điệp của nó về sự chết, thì sẽ được gợi cảm hứng để đi tìm, tìm được và đi theo một bậc thầy có tư cách, và khởi sự dấn mình vào công phu tu tập. Trọng tâm của công phu Dzogchen là hai việc luyện tập Trekchö và Tögal, tối cần cho sự thấu hiểu sâu xa về những gì xảy ra trong các giai đoạn trung gian (bardo). Ở đây tôi chỉ có thể cho một dẫn nhập sơ lược nhất khởi về hai pháp ấy. Sự giải thích toàn vẹn chỉ được làm bởi một bậc thầy đối với môn đệ, khi người đệ tử đã hoàn toàn nhiệt tâm theo giáo lí, và đã đến một giai đoạn tu tập nào đó. Điều tôi đã giải thích trong chương này, “Tinh yếu sâu xa” chính là trái tim của sự thực hành Trekchö.

Trekchö có nghĩa là cắt ngang vọng tưởng một cách trực tiếp, mạnh mẽ và toàn triệt. Vọng tưởng được cắt đứt cốt yếu là nhờ năng lực của Kiến về Tâm bản nhiên, như một con dao cắt ngang qua một thỏi bơ hay một lực sĩ Karate chặt một chồng gạch. Toàn thể lâu dài vọng tưởng sụp đổ như thể nền móng của nó bị giật sập. Vọng tưởng bị cắt đứt và sự trong sáng nguyên thủy, tính giản dị tự nhiên của Tâm bản nhiên được hiển bày.

Chỉ khi bậc thầy xác định bạn đã có căn bản trong sự thực hành Trekchö thì vị ấy mới khai thị cho bạn pháp tu nâng cấp, gọi là Tögal. Hành giả Tögal làm việc trực tiếp với điểm Linh quang nội tại, “hiện trú một cách tự nhiên”, trong mọi hiện tượng, dùng những công phu đặc biệt và rất hiệu lực để làm hiển lộ nó ở ngay trong tâm hành giả.

Tögal có đặc tính là sự trực ngộ tức khắc đồng thời. Thay vì phải băng qua một dãy núi để đạt đến chóp đỉnh của một ngọn núi đằng xa, phương pháp Tögal sẽ là nhảy một cái tới ngay đích. Hiệu quả của Tögal là giúp cho người ta thực hiện mọi khía cạnh khác nhau của Tuệ Giác nội tâm ngay trong một đời này”. Bởi vậy nó được xem như phương pháp độc đáo phi thường của Dzogchen. Nếu Trekchö là trí tuệ của Dzogchen, thì Tögal chính là phương tiện thiện xảo của nó. Pháp môn này cần một kỉ luật lớn lao, và thông thường được luyện tập trong môi trường nhập thất.

Tuy nhiên cần nhấn mạnh lần nữa rằng con đường Dzogchen chỉ có thể được theo dưới sự hướng dẫn trực tiếp của một bậc thầy đủ tư cách. Như đức Dalai Lama đã nói: “Một điều bạn cần nhớ kĩ, là sự thực hành những pháp môn thuộc thiền đốn ngộ như Trekchö và Tögal, chỉ có thể được hoàn tất dưới sự chỉ dẫn của một bậc thầy có kinh nghiệm, và nhờ nhận được cảm hứng và ban phước của một người đã chứng ngộ pháp môn ấy.”

---o0o---

Trích: Tạng Thư Sống Chết

Tác giả: Soyal Rinpoche

Người dịch: Thích Nữ Trí Hải

NXB Hồng Đức

Ảnh nguồn internet

Bài viết liên quan