GIÁO LÝ LIỄU NGHĨA VÀ BẤT LIỄU NGHĨA - KHO BÁU THIỆN ĐỨC – JIGME LINGPA - Với phần bình giảng của Longchen Yeshe Dorje, Kangyur Rinpoche

GIÁO LÝ LIỄU NGHĨA VÀ BẤT LIỄU NGHĨA

KHO BÁU THIỆN ĐỨC – JIGME LINGPA

Với phần bình giảng của Longchen Yeshe Dorje, Kangyur Rinpoche

Nhóm Padmapani chuyển Việt ngữ

--o0o--

Để dẫn dắt chúng sinh trên đạo lộ, Đức Phật đã xem xét các hiện tượng theo cách chúng xuất hiện với tâm mê lầm của chúng sinh, hay nói cách khác là sự trình hiện trên khía cạnh của sự thật tương đối, từ đó Ngài giảng dạy về các đối tượng mà thực tế không thật sự tồn tại.
GIÁO LÝ LIỄU NGHĨA VÀ BẤT LIỄU NGHĨA - KHO BÁU THIỆN ĐỨC – JIGME LINGPA - Với phần bình giảng của Longchen Yeshe Dorje, Kangyur Rinpoche

 

Giáo lý liễu nghĩa và bất liễu nghĩa

Nền tảng căn bản của vạn pháp trong luân hồi, niết bàn và con đường là cảnh giới thuần tịnh tự nhiên của thực tại tuyệt đối, cũng chính là bản tính sáng tỏ của tâm. Vô sinh, thường trụ và tịch tĩnh, đó là trạng thái được diễn tả như ba cánh cửa giải thoát (tam giải thoát môn) bao gồm: không, vô tướng và vô cầu. Đây là liễu nghĩa (ý nghĩa tối hậu).

Để dẫn dắt chúng sinh trên đạo lộ, Đức Phật đã xem xét các hiện tượng theo cách chúng xuất hiện với tâm mê lầm của chúng sinh, hay nói cách khác là sự trình hiện trên khía cạnh của sự thật tương đối, từ đó Ngài giảng dạy về các đối tượng mà thực tế không thật sự tồn tại. Như thế, đối với nền tảng, Ngài đã dạy về các uẩn (skandha), các giới (dhatu) và các xứ (ayatana). Đối với con đường, Ngài chỉ dạy giáo lý của ba Thừa. Đối với kết quả, Ngài giảng về ba loại niết bàn. Tất cả những giáo lý này hợp thành giáo lý bất liễu nghĩa. Kinh văn lưu trữ những lời dạy này gọi là “Kinh bất liễu nghĩa”, và những luận giải về chúng gọi là “Luận bất liễu nghĩa”. Những ai hiểu được sự khác biệt giữa giáo lý của Kinh liễu nghĩa và Kinh bất liễu nghĩa sẽ biết phải đặt niềm tin vào đâu. Bốn sự nương tựa đã đề cập ở trên sẽ làm sáng tỏ điều này. Tất cả những gì vừa bàn tới là chìa khóa mở ra kho tàng giáo lý, cho phép chúng ta hấp thu những nội dung phong phú và quý giá của Pháp.

Giáo lý hàm ẩn và giáo lý gián tiếp

Khi đã hiểu sự khác biệt giữa giáo lý liễu nghĩa và bất liễu nghĩa, chúng ta có thể tiếp tục bàn sâu hơn về giáo lý bất liễu nghĩa, đó là những giáo lý mà ý nghĩa thật sự không được thuyết một cách rõ ràng. Chúng ta cần hiểu được phương thức mô phạm mà Đức Phật sử dụng và cả nội dung Ngài muốn truyền tải trong các Kinh bất liễu nghĩa này. Để nắm được điều đó và rút ra được ý nghĩa có giá trị tối hậu, sẽ là hữu ích để phân biệt bốn loại giáo lý “hàm ẩn” và bốn loại giáo lý “gián tiếp”.

Chúng ta sẽ bắt đầu với bốn loại giáo lý hàm ẩn. Ở đây, Đức Phật chỉ đơn thuần tuyên thuyết những lời lẽ mà người nghe có thể hiểu theo một cách mở. Điều này khác với giáo lý gián tiếp, nơi Đức Phật giảng cho thính chúng bằng những diễn giải có sắp đặt để phù hợp với tình huống, nhằm dẫn người nghe tới cái hiểu mà Đức Phật thực sự muốn họ hiểu. Cần lưu ý rằng, trong trường hợp của giáo lý hàm ẩn, mặc dù ý nghĩa hàm ẩn là quan trọng nhất, nhưng thực tế nó có thể vượt quá khả năng nắm bắt của người nghe, cho dù nó vẫn đạt được mục tiêu trước mắt của việc thuyết pháp.

Giáo lý hàm ẩn

1. Giáo lý hàm ẩn tính bình đẳng của vạn pháp.

Nói chung, đứng trên góc độ của bản tính nền tảng thì vạn pháp đều vượt ngoài phạm trù tốt hay xấu. Chúng siêu vượt bất cứ sự phân biệt đối đãi nào như vậy. Theo cách hiểu này, hết thảy chư Như Lai về bản chất đều bình đẳng như nhau trong cảnh giới của Pháp Thân. Tâm niệm điều này, Đức Phật đã nói rằng: “Một thuở nọ, ta là Đức Phật toàn hảo Vipashyin (Tỳ Bà Thy)”. Ngài ngụ ý dạy rằng các hiện tượng xuất hiện như thể khác biệt về thời gian, hoặc như thể đối lập nhau – luân hồi và niết bàn, tốt và xấu, được chấp nhận hoặc bị từ chối – thì tất cả đều là một. Thêm nữa, với những lời này Ngài làm bối rối, bẽ bàng những kẻ coi thường Ngài vì cho rằng tuổi thọ của Ngài là ngắn hay phán xét kích thước thân thể Ngài.

2. Giáo lý hàm ý sự vắng mặt của tự tính trong các pháp.

Với một tâm niệm khác (về sự vắng mặt của tự tính trong ba tự tính là: tự tính giả lập, tự tính tuỳ thuộc và tự tính tuyệt đối), Đức Phật đã nói rằng khi khảo sát các pháp, kể từ sắc cho tới toàn giác, thì không có gì được tìm thấy. Như vậy, bằng cách viện dẫn sự phân tích và tương tự, Ngài đã hoá giải xu hướng bám chấp vào các pháp như là thật.

3. Giáo lý hàm ý sự viên mãn ở tương lai.

Biết được rằng một khi nhân giác ngộ đã gieo trồng thì quả của nó ắt sẽ trổ tại một thời điểm trong tương lai, vì vậy Đức Phật đã nói rằng chỉ cần trì tụng một lần đà-la-ni hay minh chú nào đó, hoặc chỉ đơn thuần niệm danh hiệu của Đức Phật Nirmala Chandraprabha thì người ta sẽ “dễ dàng” đạt giác ngộ. Ngài nói như vậy là để khuyến dụ những người chậm chạp và biếng nhác trong việc thực hành công đức.

4. Giáo lý khuyến khích sự khiêm nhường thay vì tự phụ và kiêu ngạo.

Nhận thấy rằng việc để tâm kiêu mạn xen lẫn vào thực hành bố thí là một rào cản tới giải thoát, Đức Phật đã làm giảm giá trị của nó và nói rằng đó là việc làm của ma quỷ (mặc dù tất nhiên là không phải vậy) và ca tụng thực hành trì giới. Ngược lại, để học trò không trở nên tự mãn vào khả năng trì giới của họ, Đức Phật đã đả kích điều đó và tán dương lòng hảo tâm, hạnh bố thí. Ngài đã tiêu diệt tính tự phụ và kiêu ngạo của học trò theo những cách như vậy.

Giáo lý gián tiếp

Trong những giáo lý được gọi là gián tiếp, Đức Phật thuyết giảng theo cách mà những lời dạy này không nên chỉ hiểu ở nghĩa bề mặt. Ngài làm vậy bởi vì nếu Ngài đưa ra những chủ đề như sự bất khả phân của Nhị Đế hay các phẩm tính phi thường của chư Phật và Bồ Tát, bằng thứ ngôn ngữ trực tiếp không màu mè tới thính giả là những người sơ cơ, thì họ khó mà chấp nhận và có thể khiến họ rơi vào nghi ngờ. Với những người chưa phù hợp để giới thiệu trực tiếp những giáo lý như vậy, Đức Phật đã khéo léo sử dụng những ngôn từ và luận điểm để khích lệ và tạo ấn tượng cho người nghe. Nhằm giúp họ hiểu được trí tuệ mà Ngài muốn dẫn dụ, Đức Phật đã dạy bằng những lời lẽ phù hợp với căn cơ của người nghe, mặc dù ý nghĩa thực sự không phải vậy.

Kinh Trang Nghiêm có phân biệt bốn loại giáo lý gián tiếp bao gồm: (1) giáo lý gián tiếp nhằm dẫn người nghe vào đường đạo; (2) giáo lý gián tiếp về bản tính của các pháp; (3) giáo lý gián tiếp liên quan tới các pháp đối trị; và (4) giáo lý gián tiếp thông qua phép ẩn dụ.

1. Giáo lý gián tiếp nhằm dẫn người nghe vào đường đạo.

Nếu ngay từ đầu Đức Phật đã dạy những người có căn cơ và chí nguyện thấp về những giáo lý như Bát Nhã Ba-la-mật, trong đó sự vô ngã (hay vô tự tính) của các pháp được chỉ bày trực tiếp, thì người nghe có thể hiểu lầm vì không biết rằng các pháp khởi sinh một cách tương thuộc. Do đó họ có thể hiểu sai lời dạy này như một quan điểm hư vô, cho rằng chẳng có gì cả. Kết quả là họ sẽ cảm thấy mất tinh thần bởi cả ngôn từ lẫn ý nghĩa của lời dạy, và có thể từ bỏ con đường và giáo lý Đại Thừa. Bởi vậy nên trong Kinh Điển Đức Phật có nói rằng: “Này Subhuti, sắc có các thuộc tính, thanh có các thuộc tính”. Như thế Ngài đã đưa ra lời tuyên bố ngụ ý sự tồn tại của sắc tướng và tương tự. Nhờ vậy những người lắng nghe Ngài sẽ không cảm thấy bị sốc, và với niềm tin rằng các pháp thực sự tồn tại, họ sẽ bước vào con đường. Đây chính là mục đích để Đức Phật tuyên thuyết những gì Ngài đã thuyết. Mặc dù vậy, bản thân Đức Phật biết rằng mọi hiện tướng trình hiện trước một tâm thức mê mờ theo cách chỉ như trong một giấc mơ

2. Giáo lý gián tiếp về ba tự tính của các pháp.

Nói rằng các pháp là vô tự tính trong bản tính nền tảng của chúng” không có nghĩa rằng chúng hoàn toàn không tồn tại, mà có nghĩa rằng chúng được đặc trưng bởi ba cánh cửa giải thoát. Từ sự hiểu biết này mà đề cập tới ba loại tự tính hay ba thực tại. Đầu tiên, có tự tính giả lập (biến kế sở chấp), hay là thực tại được nhận hiểu bởi chúng sinh bình thường. Thứ hai là tự tính tùy thuộc (y tha khởi), là cách các pháp khởi sinh thông qua duyên khởi. Thứ ba là tự tính tuyệt đối (viên thành thật), hay nói cách khác chính là Chân Như, là tính không, vượt ngoài mọi khái niệm tạo dựng.

Ở cấp độ của thực tại giả lập hay thực tại quy gán của hiện tượng, sự vắng mặt của tự tính có nghĩa là hiện tượng đó không hề tự nó tồn tại. Đó chỉ là nhận thức sai lầm mà không có chút thực tại nào. Điều này được minh hoạ qua ví dụ một người nhìn thấy sợi dây nhưng lầm tưởng là con rắn.

Ở cấp độ của thực tại tuỳ thuộc, sự vắng mặt của tự tính có nghĩa rằng các pháp là vô sinh. Bởi vì mặc dù các pháp dường như được sinh ra từ một nguồn gốc nào đó, nhưng nếu khảo sát kỹ ta sẽ thấy rằng không có trường hợp nào trong bốn loại nguồn gốc khả thi có thể áp dụng cho chúng? Theo nghĩa này, chúng chỉ xuất hiện như ảo ảnh.

Ở cấp độ của thực tại tuyệt đối, sự vắng mặt của tự tính có nghĩa rằng ngay cả sự thật tuyệt đối cũng không thể được cho là vốn sẵn tồn tại. Nói như vậy là bởi vì sự thật tuyệt đối thì vượt ngoài phạm vi của khái niệm và thuộc tính (bất tịnh, thanh tịnh...). Nó giống như bầu trời không mây. Với tri kiến về ba loại thực tại này, Đức Phật đã chỉ bày giáo lý vô cùng thâm sâu, khó lòng hiểu thấu. Ví dụ Ngài nói rằng: “Tất cả các pháp, từ sắc cho tới toàn giác, đều không thật có. Chúng không có nguồn gốc khởi sinh”.

Những điều trên đây được trình bày theo quan điểm của Trung Quán, là tông phái xem giáo lý của Đức Phật về ba tự tính của các pháp như là giáo lý bất liễu nghĩa. Về phần mình, những nhà Duy Thức tông đưa ra quan điểm đối lập và khẳng định rằng chính lời dạy của Đức Phật về sự vắng mặt của tự tính mới là giáo lý bất liễu nghĩa. Theo quan điểm của họ, khi Đức Phật nói rằng thực tại giả lập không tồn tại, ý Ngài muốn nói rằng không có thực thể nào nằm bên ngoài và tách biệt khỏi tâm. Khi Ngài nói rằng thực tại tuỳ thuộc không thật sự tồn tại, Ngài muốn nói rằng nhân sinh ra các pháp không thể tìm thấy trong chính chúng. Khi Ngài nói rằng thực tại tuyệt đối không tồn tại, Ngài muốn nói rằng đó không phải là điều gì tách biệt khỏi thực tại tuỳ thuộc. Đây là lý do tại sao Ngài khẳng định chúng không có tự tính. Nhưng quan điểm này là quan điểm riêng của các nhà Duy Thức và không giống như điểm đã nêu ra ở trên.

3. Giáo lý gián tiếp liên quan tới các pháp đối trị.

Có những người với tâm phàm tục và thiển cận nghĩ rằng trong số một ngàn vị Phật sẽ xuất hiện, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni là bậc thua kém hơn bởi vì như có nói đến ở trong Kinh Bhadrakalpita: thân Ngài mảnh khảnh, hào quang của Ngài chỉ rộng một cánh tay, những người theo Ngài thì gầy ốm, và thọ mạng của Ngài ngắn ngủi. Để uốn nắn cái nhìn miệt thị sai lầm như vậy, Đức Phật đã dạy rằng thọ mạng, dòng dõi và vóc dáng của Bậc Thầy thì vượt khỏi mọi sự đo lường. Khi nói như vậy, Ngài có ý rằng Sắc Thân của tất cả chư Phật là bình đẳng trong việc xuất hiện chỉ vì mục đích duy nhất lợi là lạc cho chúng sinh, bình đẳng trong Pháp Thân vô sinh, bình đẳng trong việc sở hữu hai bồ tư lương hoàn hảo, và bình đẳng trong các công hạnh giác ngộ được thi triển không nỗ lực vì lợi ích cho tha nhân.

Cũng vậy, để đối trị lại thái độ coi thường Pháp trao truyền của Ngài, Đức Phật đã nói rằng: “Khả năng có thể hiểu được giáo lý Đại Thừa là kết quả của việc tôn kính chư Phật nhiều như số cát sông Hằng”. Ngài nói vậy là có ý ám chỉ tới Pháp chứng ngộ nằm trong giáo lý Đại Thừa mà Ngài đã chỉ bày.

4. Giáo lý gián tiếp thông qua phép ẩn dụ

Để tránh người khác nói những điều như: “Nhà tu khổ hạnh Cổ-Đàm dạy người ta những điều không được thỉnh cầu”, Đức Phật đã nói rằng: “Pháp của ta là thâm sâu, an lạc, vượt ngoài mọi khái niệm... rồi Ngài chỉ giữ yên lặng. Và để tránh người ta nói rằng: “Nếu vị ấy đạt được thành tựu thù thắng như vậy chỉ sau có sáu năm tu khổ hạnh, chắc hẳn Pháp của vị ấy rất đơn giản mà thôi, Đức Phật đã nói rằng người ta nên giết cha và mẹ của mình (là những người không nên sát hại trong bất cứ hoàn cảnh nào). Ngài nói vậy là để dẫn dụ học trò vào những giáo pháp thâm sâu hơn. Hay Ngài cũng nói rằng giải thoát chỉ đạt được bởi những ai từ bỏ nhà vua và hai tầng lớp đức hạnh (Bà-la-môn và nhà tu khổ hạnh), và bởi những ai tiêu diệt cả vương quốc lẫn triều đình – là tất cả những gì không nên tiêu diệt. Thực ra Đức Phật nói những lời này nhằm ám chỉ tới Ái, Thủ và A-lại-da. Như thế, trong Udanavarga (Kinh Pháp Cú), Đức Phật nói rằng:

Cha và mẹ, hãy giết cả hai.

Nhà vua và hai tầng lớp đạo hạnh,

Quốc gia và vương triều, hãy tiêu diệt tất cả!

Giải thoát chỉ dành cho những ai làm như vậy.

Sẽ là một lỗi lầm tai họa nếu hiểu những lời này theo nghĩa đen của nó.

Sự khác biệt giữa giáo lý hàm ẩn và gián tiếp.

Cho dù giáo lý hàm ẩn và giáo lý gián tiếp được trình bày theo bất cứ hình thức nào thì chúng đều đưa tới một ý nghĩa cốt tuỷ giống nhau, điểm khác biệt chỉ nằm ở cách nhấn mạnh. Khi lời dạy của Đức Phật được giải thích trong đó ý nghĩa thực sự không nằm trong nghĩa đen của câu từ, và người luận giảng nhấn mạnh ý nghĩa ẩn dấu này, nói rằng: “Đức Phật nói như vậy nhưng thực tế Ngài có ý rằng... thì chúng ta gọi đó là giáo lý hàm ẩn. Ý nghĩa thực sự được ẩn sau lời dạy của Đức Phật một cách có chủ đích nhằm dẫn dắt chúng sinh trên đường đạo. Ngược lại, khi người luận sư giải thích lời dạy của Đức Phật theo cách nhấn mạnh mục đích thuyết giáo của Ngài và nói rằng: “Lý do Đức Phật không nói trực tiếp mà nói một cách xa xôi như vậy là để dẫn dắt những chúng sinh nhất định trên con đường”, khi đó chúng ta gọi đây là giáo lý gián tiếp. Tất nhiên là việc giải thích những lời dạy, ý nghĩa và mục đích của Đức Phật là một chủ đề rộng lớn và phức tạp. Nhưng nói tóm lại, trí tuệ có thể xác định đúng đắn đâu là giáo lý hàm ẩn và giáo lý gián tiếp chính là chiếc chìa khóa thứ hai mở ra kho tàng Kinh Điển và Mật Điển.

Ảnh nguồn internet

Bài viết liên quan