Thi sĩ là “những con ong của cái vô hình” (R.M.Rilke). Thi sĩ là người nghe được “những bông tuyết rơi của mùa vắng mặt” (S.J.Perse).
Thi sĩ là người cảm nghiệm cái vô thường ở tận những thế kỷ sau:
“Em về mấy thế kỷ sau
Nhìn trăng có thấy nguyên màu ấy không
Ta đi để lại đôi dòng
Lá rơi có dội ở trong sương mù”
-(Bùi Giáng)
Thi sĩ là người cảm nghiệm những sự kiện bình thường mà quá đỗi phi thường của đời sống:
Hôm nay có một người du khách
Ở Ngự Viên mà nhớ Ngự Viên
-Nguyễn Bính
Buồn ở sông xanh nghe đã lại
Mơ hồ trong một tiếng chim qua
-Xuân Diệu
Mưa chiều thứ Bảy tôi về muộn
Cây khế đồi cao trổ hết bông
-Phạm Công Thiện
Những điều trên đều là những sự kiện, nhưng là những sự kiện mang tính ý nghĩa của con người, là những ý nghĩa mang tính ý hướng (intentionnalité, chữ của Hiện tượng luận Husserl). Đó là những sự kiện ý nghĩa xảy ra trong và của thực tại, xảy ra trong và của Hữu thể, xảy ra trong và của Đạo. Như thế, phải chăng bằng cảm thụ sâu sắc và thẩm mỹ của mình, thi sĩ đã lật ngược những sự vật bình thường, đem chúng về đặt trong ý nghĩa uyên nguyên, trong ánh sáng nguyên sơ của chúng? Sáng tạo là lật ngược những sự vật của giác quan bình thường để làm hiển lộ ra mặt ẩn kín, không biểu lộ của chúng. Thực tại thì có vô lượng nghĩa, như bản kinh Đại Thừa Vô Lượng Nghĩa đã cho thấy. Văn học hiện đại cũng nói đến sự đa tầng, đa nghĩa của một bài thơ, và đó là giá trị của bài thơ.
Thi sĩ là người phát ngôn của Đời sống (hay của Hữu thể, của Đạo). Người phát ngôn (le porte-parole) nghĩa đen là người mang lời nói. Lời nói với truyền thống Tây Phương, cụ thể là với Heraclite, là Logos (le Verbe). Logos là lời nói, diễn đạt, ý nghĩa hay lý tính, chân lý hay định luật, hữu thể (Karl Jaspers giải thích). Logos là “Tất cả là Một” (nguyên văn câu đầu tiên trong bản văn của Heraclite: “Nếu ngươi nghe, không phải nghe ta, mà nghe Logos (lời), thì minh triết là: Tất cả là Một”). Tóm lại, Logos là “Tất cả là Một, Một là Tất cả”. Nếu có thể nói thêm, kiến giải về Logos này đã đạt đến thế giới “lý sự vô ngại”, chứ chưa đạt đến thế giới “sự sự vô ngại” của tông Hoa Nghiêm. Chúng ta biết rằng sau Heraclite 5 thế kỷ, thánh Jean đã dùng từ Logos này trong câu mở đầu phần Phúc Âm của mình: “Ban đầu có Ngôi Lời (Logos, le Verbe). Ngôi Lời ở cùng Thượng Đế và Ngôi Lời là Thượng Đế”. Chúng ta cũng biết rằng trong dòng lịch sử triết học Tây Phương, biện chứng pháp (la dialectique) và cái chúng ta hay gọi là “logic” (logique, luận lý học, hợp luận lý) đều lưu xuất từ danh từ Logos này.
Nếu nói trong bối cảnh của Lão Tử Đạo Đức Kinh, ngôn ngữ, lời nói là cái Đức của Đạo, vì Đức là sự biểu lộ của Đạo. Do đó, thi sĩ chính là sự biểu lộ, cái Đức của Đạo trong con đường ngôn ngữ. Trong ngữ cảnh của Kinh Dịch, thi sĩ là người thấu cảm được “cái đại đức của thiên địa”, “thấy được cái tâm của thiên địa”, “thấy được cái tình của thiên địa vạn vật” (quẻ Hàm, quẻ Hằng, quẻ Tụy…) và diễn đạt ra bằng ngôn ngữ, tức là bằng một loại “văn” của Trời Đất. Linh hồn thi ca là con rồng tinh thần và tâm linh trong quẻ Kiền mở đầu cho 64 quẻ của kinh Dịch.
Đối với Phật Giáo Mật thừa, một vị giác ngộ thì thân, ngữ, tâm của vị ấy cũng được bao hàm trong ánh sáng và năng lực của giác ngộ. Ngữ của vị ấy thấm nhuần năng lực của giác ngộ và trở thành thân chú (mantra). Trung tâm năng lực (chakra, luân xa) thuộc về ngữ ở cổ họng được phát huy triệt để và lời nói trở thành năng lực, năng lực là lời nói. Do đó những lời pháp bằng hình thức thơ của những thành tựu quả (siddha) được gọi là những bài ca kim cương (vajra), những bài ca của lời kim cương. Những bài ca đó chính là thực tại tối hậu hiện thân bằng ngôn ngữ.
Ở Việt Nam, vào thế kỷ XVIII, Ngô Thì Nhậm viết sách Trúc Lâm Tông Chỉ Nguyên Thanh, phần “Đại chân viên giác thanh” nói về 24 thanh. Đây là một tổng hợp Phật, Nho, Lão mà nền tảng là Phật giáo. Nguyên thanh là nguyên ngôn, lời tiếng nguyên thể (Logos), với 24 cách biểu hiện. Mỗi thanh đều có mặt Bồ tát Quán Thế Âm, vị Bồ tát quán sát âm thanh mà giác ngộ. Tiếng lời nguyên thể (nguyên thanh) cũng là tiếng lời giác ngộ (Viên Giác thanh). Trong ngữ cảnh này, thi sĩ là người nghe được tiếng lời uyên nguyên (nguyên ngôn, nguyên thanh) đang ở trong và của vạn vật, hữu hình cũng như vô hình và diễn đạt chúng bằng tiếng lời của con người với tính thẩm mỹ, nhịp điệu và hài hòa (cũng là những tính chất của vạn vật).
Dù có nhiều đường lối tiếp cận linh hồn của thơ, bao giờ thơ cũng là lời thể hiện sự sáng tỏ của một con người trước thực tại. Càng thấy rõ thực tại bao nhiêu, thi sĩ càng có những câu thơ “bất hủ” bấy nhiêu. Càng gần với Nguyên ngôn Logos bao nhiêu, những lời tiếng, những câu thơ của thi sĩ càng vang vọng, càng ở mãi trong trí nhớ độc giả bấy nhiêu. Càng gần với cái Đời Sống viết hoa bao nhiêu, thơ của thi sĩ càng sống động và càng có cuộc sống lâu dài bấy nhiêu. Thi sĩ là sứ gia, là người mang lời nói của Đạo và lời nói ấy hẳn là một thông điệp. Thi sĩ là người chăn dắt cái vô hình, vô tướng. Nuôi dưỡng cái vô hình là làm xuất lộ nó trên bình diện hữu hình của ngôn ngữ, đó là sứ mạng của thi sĩ xét như là thiên sứ, như là nhà tiên tri.
Cho nên, ít nhất là với Đông phương, thi sĩ luôn luôn sống cuộc đời tu dưỡng. Chỉ lấy thí dụ Nguyễn Du:
Ta đọc Kim Cương cả nghìn lần
Phần lớn yếu chỉ không rõ nghĩa
Giờ đến dưới Thạch Đài Phân Kinh
Mới hay “không chữ” thật chân kinh.
Có tu dưỡng (chữ này của Nho giáo) cả đời như vậy mới có một ngày hình tướng vật lý (physique, vật lý học, hình tướng học) đột biến thành siêu vật lý, siêu hình học (métaphysique, vượt khỏi vật lý, hình tướng):
Vô ngôn độc đối đình tiền trúc
Sương tuyết tiên thời hợp hóa long
(Không lời, một mình đối diện cây trúc trước sân
Khi sương tuyết tiêu bèn hóa thành rồng).
Có thiền định thiền quán (vô ngôn độc đối) thì mới có ngày cây trúc biến thành con rồng tâm linh, vật vô tri mới biến thành “thật tướng vô tướng”. (Từ ngữ thật tướng vô tướng này từ câu chuyện Thiền tông: Một hôm Đức Phật đưa cành hoa lên, trong đại chúng chỉ có ngài Ca Diếp mỉm cười. Đức Phật nói với ngài Ca Diếp: “Ta có chánh pháp nhãn tạng, Niết bàn diệu tâm, thật tướng vô tướng, nay phó chúc cho ông”). Có như vậy Nguyễn Du mới “Bốn thời tâm kính tự như như”. Nếu được như vậy, hẳn ông đã thấy được cái đẹp không lệ thuộc vào hình tướng, vượt ngoài hình tướng. Và do đó, hình tướng nào cũng đẹp, vì hình tướng nào mà chẳng ở trong tâm kính tự như như? Đây có thể nói là ông đã bước vào sự sáng tạo bổn nguyên, sự sáng tạo không cần người sáng tạo, nơi đó cái Chân, Thiện, Mỹ và những gì gì nữa là Một.
Chỉ từ một cuộc chuyển hóa như vậy cái hình nhi hạ học mới biến thành hình nhi thượng học, nói theo Nho giáo, lời nói biến thành Nguyên ngôn (Logos), đời mới biến thành Đạo, hay nói theo Phật giáo, sanh tử mới biến thành Niết bàn, phương tiện (upaya) mới biến thành trí huệ (projna). Và cũng từ đó con người mới trở thành thi sĩ đích thực: một con người (Nhân) sống để nối kết cho trời và đất (thiên và địa). Thi sĩ là người chăn cừu (một ý tưởng của Tây phương, hay nói theo Thiền tông là người chăn trâu) chăn dắt ngôn ngữ và sự vật (vì từ đây ngôn ngữ và sự vật là một) trên cánh đồng bao la của Hữu thể, của Đạo, hay nói theo ngôn ngữ Phật giáo, trên cánh đồng của ánh sáng trí huệ và nguồn nước từ bi. Chỉ từ sự tu dưỡng đưa đến chuyển hóa, con người mới trở thành thi sĩ và cũng hoàn thành sứ mạng làm người. Sứ mạng thi sĩ là chăn dắt ngôn ngữ, sự vật trở về Nguyên ngôn, trở về với Đạo.
Trong khi khoa học kỹ thuật khai thác vật thể (vật lý học, physique) thì thi sĩ khai thác cái vô hình, vô tướng (siêu hình hoc, métaphysique). Ở đây chúng ta thấy một điểm tương đồng với Phật giáo: hành giả là người tìm cách thấy được cái phi tướng, cái vô tướng, điều đó kinh Kim Cương nói là thấy Như Lai, tức là thấy thực tại tối hậu (kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai). Sứ mạng thi sĩ là chăn dắt ngôn ngữ, sự vật đi đến (hay trở về) chỗ Thái Hòa (Bảo hợp thái hòa: kinh Dịch). Trong ngữ cảnh Tây phương, thi sĩ là người chăn dắt cuộc trường chinh Odyssée trở về Quê hương hữu thể. Thi sĩ là người đem cuộc phiêu lưu của Don Kichotte (cũng là cuộc phiêu lưu của Tây phương) đặt lại trong Quê hương hữu thể: phiêu lưu là phiêu lưu trong Quê hương chứ không phải là phiêu lưu không quê hương vô vọng. Phiêu lưu ấy phải là một cuộc “du hý”, như thuật ngữ Phật giáo để chỉ cuộc đời “phiêu lưu” của Bồ tát. Thi sĩ là nhà huyền bí (mystique) và như Lão Tử nói, “Huyền chi hựu huyền”, huyền rồi lại thêm huyền.
Ngày nay thi ca nói riêng và văn học nói chung trên thế giới đều yếu đi vì không chú ý đến siêu hình học, hay nói theo chữ của Đông phương là Đạo học. Và người em của nó, người luôn luôn sát cánh giúp đỡ nó, phê bình văn học cũng vậy. Mặc dù có đủ mọi thứ chủ nghĩa: thuyết chuyển cảm, biểu hiện, trực giác, ngữ nghĩa học, tâm phân học, hiện tượng luận, mỹ học tiếp nhận, giải thích học, cấu trúc và hậu cấu trúc... nhưng những phương pháp ấy đều bỏ quên siêu hình học hay hữu thể học, do đó mà thiếu cái nền tảng chung cho mọi giải pháp.
Thiếu sự tu dưỡng cần thiết, thi ca yếu đi vì không nói lên được Đời Sống, được Thực tại. Người ta có thể đổi mới thơ bằng những bẻ gãy hình thức, phá bỏ nhịp điệu, bằng những thủ thuật của ngôn ngữ và ý tưởng hoặc bằng cách đề cập khá sỗ sàng, khá “hiện thực” những vấn đề người xưa ít bàn đến (như vấn đề tình dục), nhưng làm sao có thể đổi mới khi con người chưa đổi mới? Làm sao có thể tu dưỡng thi ca khi chủ thể sáng tạo thi ca là con người chưa chịu tu dưỡng? Ở thế kỷ XVIII, Bùi Huy Bích đã nói: “Người quân tử đời sau biết chăm chỉ học hỏi để sửa mình rồi dần dần trở thành người có văn chương, đó là người bậc nhất. Những người tập làm văn chương rồi thấy được nghĩa lý trong đó, là bậc thứ hai. Còn hạng kém nhất thì chỉ biết có văn chương mà thôi”.
Thậm chí những lời nói của người xưa như “văn dĩ tải Đạo”, văn để chuyên chở Đạo, cũng được hiểu theo nghĩa hình nhi hạ học là văn để chuyên chở đạo lý (đạo lý theo cấp độ hình nhi hạ học), để tuyên truyền, để làm sang cho ý kiến xã hội... Văn để chuyên chở Đạo nghĩa là trong văn luôn luôn hàm chứa Đạo, Đời sống, Thực tại. Heidegger cũng có một câu nói tương đồng: “Ngôn ngữ là ngôi nhà của Hữu thể”.
Chính vì sự bỏ quên Hữu thể, bỏ quên Đạo, làm cho thi ca trở nên mất giá nhất so với những lãnh vực xã hội khác. Chính sự vô cảm với Hữu thể, với Đạo làm cho chúng ta ngày nay không còn được nghe những tâm tình con người mang tầm vóc vũ trụ (tầm vóc trời đất) như của Khuất Nguyên, Lý Bạch, Thiền sư Viên Chiếu đời Lý, Huệ Trung thượng sĩ đời Trần. Khi không còn chú ý đến Hữu thể, đến Đạo, thơ chỉ còn là ngôn ngữ của đời thường, được sử dụng như một đồ vật xài xong rồi bỏ đi.
Làm sao để ngôn ngữ thơ, lời nói thi ca có thể “siêu sanh” (hay “tái sanh”) vào bờ cõi của Thi ca, cõi Thơ, cõi Đạo?
_Trích từ cuốn BÀI CA CỦA TỰ DO VÀ NIỀM VUI, Thái Hà Books @2022.