THẬP ĐỊA BỒ-TÁT _ NHẬP MÔN KIM CƯƠNG THỪA

THẬP ĐỊA BỒ-TÁT

Trích trong NHẬP MÔN KIM CƯƠNG THỪA

Tác giả: John Powers

Lạc Hải Âm dịch Việt, Thái Hà Books phát hành @ 2025

Các hành giả đạt đến địa thứ ba khắc phục tất cả khuynh hướng tâm sân giận, và không bao giờ phản ứng với thái độ thù hận (thậm chí khó chịu) trước bất kỳ hành động hay lời nói gây hại nào. Thay vào đó, tâm bình thản của họ không gián đoạn, và họ nhìn tất cả chúng sinh bằng lòng từ ái và bi mẫn.
THẬP ĐỊA BỒ-TÁT _ NHẬP MÔN KIM CƯƠNG THỪA

 

Con đường giác ngộ của Bồ-tát tiến triển qua mười cấp độ được sắp xếp theo thứ tự, gọi là “các địa Bồ-tát” (byang chub sems dpa'i sa, bodhisattva-bhūmi). Thuật ngữ Tây Tạng ‘sa’ (tiếng Phạn: bhumi) có nghĩa đen là “địa vị” hay “nền móng” vì mỗi cấp độ biểu thị một mức độ thành tựu và thành tựu này trở thành nền móng cho giai đoạn tiếp theo. Mỗi cấp độ đánh dấu một sự tiến bộ nhất định trong quá trình tu tập của hành giả với sức mạnh và trí tuệ tiến triển ngày càng lớn hơn.

 

1. Địa Thứ Nhất, Cực Hỷ Địa.

 

Cấp độ đầu tiên, được gọi là “Cực Hỷ”, được đạt tới với nhận thức trực tiếp lần đầu tiên về tánh Không và đồng thời hành giả bước vào giai đoạn thứ ba, kiến đạo, khi chia đạo lộ giác ngộ thành năm giai đoạn như đề cập trong phần trước. Được gọi là “cực hỷ” bởi vì Bồ-tát rất hân hoan vì đã đạt được cấp độ “Thánh nhân” (phags pa, ārya) và háo hức tiến lên các cấp độ cao hơn. Ở giai tầng này, Bồ-tát thực hành xả thí ba-la-mật và phát triển khả năng cho đi tất cả mọi thứ mà không hối tiếc, và không nghĩ đến việc được khen ngợi hay đền đáp. Tất cả các hiện tượng đều được xem là rỗng không và là đối tượng của sự phân hoại, khổ đau và biến diệt; và do đó, các vị Bồ-tát không còn dính mắc vào chúng. Theo Tsong Khapa, các vị sơ địa Bồ-tát hiểu rằng sự hiện hữu của con người không dựa trên một cốt lõi nào, không hề có tự tánh. Nhờ đó, họ vượt qua được quan niệm sai lầm rằng năm uẩn tạo thành một con người thật sự tồn tại. Nhận thức đúng đắn này cũng loại bỏ hoàn toàn khuynh hướng đạo đức xấu ác đến mức chúng sẽ không phát sinh nữa.

 

Tuy nhiên, mặc dù đã trực nhận được tánh Không, các vị Bồ-tát ở cấp độ đầu tiên được thúc đẩy chủ yếu bởi niềm tin hơn là trí tuệ thấu hiểu. Họ rèn luyện đức hạnh để gột rửa tâm trí khỏi những điều tiêu cực, và vì vậy, họ trang bị những thiền định thế gian cho mình ở địa thứ hai.

 

2. Địa Thứ Hai, Ly Cấu Địa.

 

Bồ-tát ở cấp độ thứ hai, “Ly Cấu”, hoàn thiện giới hạnh và khắc phục tất cả những khuynh hướng lỗi kéo mình tham dự vào những hành vi tiêu cực. Khả năng kiểm soát của họ trở nên hoàn thiện đến mức ngay cả trong giấc mơ họ cũng không có những suy nghĩ trái đạo đức. Theo Tsong Khapa, đối với một vị Bồ-tát như vậy:

 

“trong tất cả các hoàn cảnh khi thức và mộng, các chuyển động hoặc hoạt động của thân, lời và ý của vị ấy đều thanh tịnh, thậm chí không có những lỗi làm vi tế... vị ấy hoàn thành ba thiện hạnh về thân – từ bỏ sát sinh, trộm cắp và tà dâm; bốn thiện hạnh về lời – từ bỏ nói dối, nói chia rẽ, nói lời cay nghiệt và nói chuyện vô nghĩa; và ba thiện hạnh về ý – từ bỏ tham luyến, ác ý và tà kiến. Vị ấy không chỉ ngăn được mình trước những giới cấm mà còn đầy đủ tất cả những kết quả tích cực về tư cách đạo đức.

 

Nhờ vậy, tâm của Bồ-tát trở nên thanh tịnh và bình lặng, đây là điều kiện tiên quyết để rèn luyện các tầng thiền định – Tứ Thiền Sắc Giới và Tứ Thiền Vô Sắc Giới (đã thảo luận trong chương trước).

 

3. Địa Thứ Ba, Phát Quang Địa.

 

Tsong Khapa nói rằng cấp độ thứ ba được gọi là “Phát Quang” bởi vì khi được đạt tới thì “ngọn lửa trí tuệ đốt cháy tất cả nhiên liệu của các đối tượng thuộc trí thức, đồng thời cũng phát sinh ánh sáng có khả năng tự nhiên dập tắt mọi sự tạo tác nhị nguyên khi trú thiền định”. Bồ tát ở cấp độ này trau dồi kham nhẫn ba-la-mật. Sự bình thản của họ trở nên vô cùng thâm sâu đến mức:

 

“ngay cả khi ai đó... cắt xẻo thân của vị Bồ tát này, không chỉ ở phần thịt mà sâu cả vào xương, không cắt từng mảng lớn mà cắt từng chút một, không cắt liên tục mà ngắt quãng, không phải cắt trong một thời gian ngắn mà cắt trong một khoảng thời gian dài, vị Bồ-tát ấy sẽ không nổi giận với người cắt xẻo mình.”

 

Bồ-tát nhận ra rằng kẻ hành hạ mình bị thôi thúc bởi những ý nghĩ phiền não và đang gieo mầm đau khổ cho chính mình trong tương lai. Kết quả là, vị Bồ-tát không cảm thấy tức giận mà cảm thấy rất buồn và thương xót cho con người độc ác này, kẻ không hề hay biết gì về sự vận hành của nghiệp.

Các hành giả đạt đến địa thứ ba khắc phục tất cả khuynh hướng tâm sân giận, và không bao giờ phản ứng với thái độ thù hận (thậm chí khó chịu) trước bất kỳ hành động hay lời nói gây hại nào. Thay vào đó, tâm bình thản của họ không gián đoạn, và họ nhìn tất cả chúng sinh bằng lòng từ ái và bi mẫn.

 

Tất cả sự sân giận và thù hận sẽ dội ngược lên người phát khởi chúng, và Bồ-tát không làm bất cứ hành động nào để loại bỏ những tác hại mà người khác cố ý gây cho mình. Sân giận phản tác dụng ở chỗ trạng thái này phá hủy sự an bình trong tâm người phát khởi và sẽ đưa đến những tình huống bất lợi trong tương lai. Không có gì tốt đẹp sẽ đạt được khi nổi cơn tức giận và oán hận, sự thù oán không thể làm gì để thay đổi quá khứ được; và do vậy, Bồ-tát tránh sinh khởi tâm sân. Hơn nữa, Bồ-tát nhận thức rằng đau khổ hiện tại của họ chỉ là kết quả từ những hành vi sai trái trong quá khứ của chính mình; vì vậy Bồ-tát xem kẻ đang hãm hại mình chỉ là một tác nhân của nghiệp quả chín muồi.

 

Bồ-tát ở cấp độ này cũng rèn luyện bốn tầng thiền Sắc Giới (Sơ 'Thiền, Nhị Thiền, Tam Thiền và Tứ Thiền); bốn tầng thiền Vô Sắc Giới (Không Vô Biên, Thức Vô Biên, Vô Sở Hữu và Phi Tưởng Phi Phi Tưởng – tầng thiền cao nhất về mặt thế gian); tứ vô lượng tâm (từ, bi, hỷ, xả); và ngũ thông (biến hóa thông, thiên nhĩ thông, thiên nhãn thông, tha tâm thông, túc mạng thông).

 

4. Địa Thứ Tư, Diệm Huệ Địa.

 

Ở cấp độ thứ tư, “Diệm Huệ”, các vị Bồ-tát trau dồi tinh tấn ba-la-mật và loại trừ những phiền não. Theo Wonch’uk, cấp độ này được đặt tên như vậy bởi vì các vị Bồ-tát ở giai tầng này “không ngừng phát ra ánh hào quang của trí tuệ siêu xuất". Wonch’uk cũng trích dẫn từ Luận Đại Thừa Trang Nghiêm Kinh (Mahāyāna Sūtrālamkāra) giải thích rằng các vị Bồ-tát ở địa này đốt cháy các chướng ngại thuộc phiền não và các chướng ngại đối với trí tuệ toàn tri bằng hào quang của trí tuệ. Họ dần dần đi vào các trạng thái thiền định sâu hơn và đạt được năng lực nhu nhuyến, linh hoạt của tâm. Năng lực này giúp loại bỏ sự biếng nhác và tăng khả năng thực hành thiền định của họ trong thời gian dài. Họ tiêu diệt những phiền não có gốc rễ sâu dày và trau dồi ba mươi bảy "hợp phần giác ngộ” được chia thành bảy nhóm:

 

I. Tứ Niệm Xứ

1. Chánh niệm trên thân

2. Chánh niệm trên các cảm thọ

3. Chánh niệm trên tâm

4. Chánh niệm trên các Pháp

 

II. Tứ Chánh Cần

5. Nỗ lực sinh khởi những phẩm chất thiện lành chưa sinh

6. Nỗ lực tăng trưởng những phẩm chất thiện lành đã sinh

7. Nỗ lực ngăn ngừa những phẩm chất bất thiện chưa sinh

8. Nỗ lực từ bỏ những phẩm chất bất thiện đã tạo tác

 

III. Tứ Thần Túc

9. Dục định

10. Tinh tấn định

11. Tâm định

11. Tư duy định

 

IV. Ngũ Căn

13. Tín căn

14. Tấn căn

15. Niệm căn

16. Định căn

17. Tuệ căn

 

V. Ngũ Lực

18. Tín lực

19. Tấn lực

20. Niệm lực

21. Định lực

22.Tuệ lực

 

VI. Thất Giác Chi

23. Niệm giác chi

24. Trạch pháp giác chi

25. Cần giác chi

26. Hỷ giác chi

27. Khinh an giác chi

28. Định giác chi

29. Xả giác chi

 

VI. Bát Chánh Đạo

30. Chánh Kiến

31. Chánh Tư Duy

32. Chánh Ngữ

33. Chánh Nghiệp

34. Chánh Mạng

35. Chánh Tinh Tấn

36. Chánh Niệm

37. Chánh Định

 

Thông qua rèn luyện ba mươi bảy hợp phần này, các vị Bồ-tát phát triển những kỹ năng tuyệt vời về năng lực thiền định và trưởng dưỡng trí tuệ, đồng thời làm suy yếu các khái niệm bổn hữu và tân huân đối với các tư tưởng sai lệch về sự tồn tại cố hữu của mọi sự vật hiện tượng.

 

5. Địa Thứ Năm, Nan Thắng Địa.

 

Cấp độ thứ năm được gọi là “Nan Thắng” bởi vì nó liên quan đến những thực hành gian khổ và đòi hỏi rất nhiều nỗ lực để hoàn thiện. Nó còn được gọi là cấp độ “Khó Vượt Qua”, bởi vì khi một người đã hoàn thành việc tu tập ở cấp độ này, hành giả sẽ có được tuệ giác và năng lực thấu hiểu thâm sâu khó ai có thể vượt qua hoặc phá hoại được. Theo Luận sư Long Thọ,

 

Địa thứ năm được gọi là “Cực Nan Thắng”

vì thế lực Ma khó khuất phục hành giả;

vị ấy trở nên thuần thục sự hiểu biết,

liễu nghĩa vi tế của Tứ Thánh Đế và v.v.

 

Bồ-tát ở cấp độ này trau dồi thiền định ba-la-mật. Họ phát triển định lực mạnh mẽ và khắc phục những tập khí xao lãng. Họ đạt được trạng thái nhất tâm và hoàn thiện kiên cố định. Họ cũng hoàn toàn thấu hiểu ý nghĩa của Tứ Thánh Đế và Nhị Đế (Tục Đế và Chân Đế) và nhận thức mọi hiện tượng đều rỗng không, phù du và đều dẫn đến khổ đau.

 

6. Địa Thứ Sáu, Hiện Tiền Địa.

 

Cấp độ thứ sáu được gọi là “Hiện Tiền” bởi vì Bồ-tát nhận thức rõ ràng sự vận hành của duyên khởi và trực tiếp hiểu được “vô tướng” (mtshan mamed pa, animitta).

“Vô tướng” liên quan đến một sự thật là: các hiện tượng có vẻ như sở hữu những phẩm chất rõ ràng bởi đó là tính chất sẵn có nơi hiện tượng, nhưng khi hành giả khảo sát kỹ sự xuất hiện của chúng thì hành giả nhận ra rằng tất cả các phẩm chất đơn thuần do tâm thức gán đặt và không phải là những đặc điểm cố hữu của đối tượng đang được khảo sát.

 

Kết quả đạt được từ những sự hiểu biết đúng đắn này là chư vị Bồ-tát hiển lộ tuệ giác trong định và ngăn trừ được sự tham luyến vào luân hồi hoặc niết-bàn. Sau khi vượt qua mọi dính mắc, các vị Bồ-tát ở cấp độ này có thể tiến đến niết-bàn vô dư, nhưng do sức mạnh của tâm bồ-đề, họ quyết định tiếp tục ở lại thế gian để làm lợi ích cho chúng sinh khác. Họ trau dồi thêm tuệ giác ba-la-mật để nhận thức được rằng mọi hiện tượng đều không có nền tảng tồn tại cố hữu, chỉ giống như những giấc mơ, như ảo ảnh, như bóng hình phản chiếu, hay như những thứ hiện ra nhờ phép ảo thuật. Bồ-tát vượt qua được sự dính mắc giữa khái niệm về “tôi” và “chúng sinh khác,” cũng siêu vượt các khái niệm về “hiện hữu” và “không hiện hữu.” Các vị Bồ-tát địa thứ sáu trú trong trạng thái thấy biết về chân tánh như vậy, với dòng tâm thức không bị phiền nhiễu bởi những ý niệm lầm lạc.

 

7. Địa Thứ Bảy, Viễn Hành Địa.

 

Bồ-tát ở cấp độ thứ bảy phát triển khả năng thấy biết không gián đoạn về vô tướng và nhập thiền định cấp cao trong thời gian dài. Theo cách này, chư vị siêu vượt cả hai con đường: thế gian và siêu thế của hàng Thanh Văn và Độc Giác Phật. Vì thế, cấp độ này được gọi là "Viễn Hành” Theo luận sư Long Thọ,

 

Địa thứ bảy được gọi là “Viễn Hành” vì

những phẩm chất của vị ấy được tăng trưởng,

trong từng khoảnh khắc vị ấy có khả năng

an trú vững chắc trong vô-phiền-não định.

 

Ở cấp độ này, các vị Bồ-tát hoàn thiện “sự thuần thục các phương tiện” (thabs la mkhas pa, upāya-kaiśalya), là khả năng khéo léo áp dụng các phương thức giảng dạy của họ cho phù hợp với khuynh hướng và nhu cầu riêng biệt của đối tượng thọ pháp. Họ cũng phát triển năng lực biết được suy nghĩ của người khác, và trong mọi khoảnh khắc đều có thể thực hành tất cả các ba-la-mật. Mọi suy nghĩ và hành động đều không có phiền não, họ liên tục hành động một cách tự nhiên và hiệu quả vì lợi ích của chúng sinh khác.

 

8. Địa Thứ Tám, Bất Động Địa.

 

Cấp độ thứ tám gọi là “Bất Động” vì Bồ-tát vượt qua tất cả phiền não liên quan đến sắc tướng của các hiện tượng và tâm họ hoàn toàn chìm trong Pháp. Theo Luận sư Long Thọ,

 

Địa thứ tám “Bất Động” là cấp sung mãn,

nhờ vô niệm mà vị ấy đạt bất động,

và các hoạt động vị ấy biểu hiện qua

thân, lời và ý là chẳng thể nghĩ bàn

 

Chư Bồ-tát ở cấp độ này đã hoàn toàn thuần thục với vô tướng, tâm họ không bị lay động bởi những ý niệm liên quan đến tướng nữa. Bồ-tát địa thứ tám được cho là “bất thoái chuyển, bởi vì không còn bất kỳ khả năng nào khiến họ dao động trên con đường hoặc sa ngã. Quả vị Phật viên mãn đã chắc chắn đạt được, và không còn bất kỳ khuynh hướng nào để mưu cầu trạng thái niết-bàn cho riêng mình. Họ nuôi dưỡng “ước nguyện viên mãn”, nghĩa là họ thệ nguyện hoàn thiện nhiều giới nguyện khác nhau, nhờ đó họ tích lũy nhân lành cho nhiều giới hạnh nữa. Mặc dù Bồ-tát quyết tâm làm việc vì lợi ích của chúng sinh khác và lan tỏa tình cảm thân ái đến tất cả chúng sinh tràn ngập vũ trụ, những vị Bồ-tát này đã vượt qua mọi khuynh hướng trong tưởng thức rằng có những chúng sinh đang thật sự tồn tại.

 

Sự hiểu biết của họ về bản tánh “chân như” trọn vẹn đến nỗi nó đánh đổ những tri kiến dẫn đến phiền não, và thực tại xuất hiện trong một ánh sáng hoàn toàn mới. Họ nhập vào định về tánh Không với rất ít nỗ lực. Những vị Bồ-tát ở cấp độ này được so sánh với trạng thái của người đã thức khỏi cơn mộng và mọi sự tri giác của họ đều bị ảnh hưởng bởi cách nhận thức mới này. Họ đạt được trạng thái định gọi là “vô sanh pháp nhẫn” nhờ đó họ không còn suy nghĩ về hiện tượng dưới góc độ “hữu nhân” hay “vô nhân” nữa.

Họ cũng phát triển khả năng hóa hiện dưới nhiều hình tướng khác nhau để hướng dẫn thực hành cho chúng sinh khác. Lòng bi mẫn và sự thiện xảo trong các phương tiện của họ được sử dụng một cách tự động và ngẫu nhiên. Họ không cần phải lập kế hoạch hay suy tính cách tốt nhất để mang lại lợi ích cho người khác, vì những vị Bồ-tát này khéo léo thích nghi với mọi hoàn cảnh.

 

9. Địa Thứ Chín, Thiện Tuệ Địa.

 

Từ thời điểm này trở đi, các vị Bồ-tát tiến nhanh đến giác ngộ. Trước giai đoạn này, sự tiến triển tương đối chậm, giống như con tàu được kéo ra bến cảng. Tuy nhiên, từ cấp độ thứ tám đến cấp độ thứ mười, các vị Bồ-tát đạt được những bước tiến lớn hướng về Phật quả, giống như một con tàu đã hạ thủy, giương buồm và tiến thẳng ra đại dương. Ở cấp độ thứ chín, họ hiểu toàn diện về ba thừa – Thanh Văn, Độc Giác và Bồ-tát, và hoàn thiện khả năng thuyết giảng giáo lý. Theo Kinh Giải Thâm Mật,

 

Vì đạt được sự không lầm lỗi và trí thức uyên thâm về hệ thống giáo lý trong tất cả các phương diện, nên cấp độ thứ chín được gọi là "Thiện Tuệ."

 

Bồ-tát địa thứ chín cũng đạt được “tứ tuệ phân tích” – về học thuyết, nghĩa lý, từ ngữ, luận giải. Nhờ vậy, họ phát triển khả năng ứng biện đáng kinh ngạc và khéo léo trình bày các giáo thuyết. Sự thông tuệ của họ vượt qua tất cả con người và chư thiên; họ hiểu tất cả các tên gọi, từ ngữ, ý nghĩa và ngôn ngữ. Họ có thể hiểu bất kỳ câu hỏi nào từ bất kỳ chúng sinh nào. Họ cũng có khả năng trả lời tất cả bằng một âm thanh duy nhất mà mỗi chúng sinh đều hiểu được tùy theo khả năng nhận thức của mình. Ở cấp độ này, họ cũng trau dồi Ở thêm Lực Ba-la-mật, có nghĩa là nhờ sức mạnh của việc thuần thục bốn tuệ phân tích và năng lực thiền định, họ có thể phát triển sáu ba-la-mật một cách mạnh mẽ và thực hành chúng liên tục mà không mệt mỏi.

 

10. Địa Thứ Mười, Pháp Vân Địa.

 

Ở cấp độ thứ mười, các vị Bồ-tát vượt qua những dấu vết vi tế nhất của phiền não. Giống như một đám mây làm mưa xuống mặt đất, những vị Bồ-tát này truyền bá giáo lý theo mọi hướng, và mỗi chúng sinh hữu tình đều hấp thụ những gì họ cần để phát triển tâm linh. Như thế, Long Thọ cho rằng,

Địa thứ mười gọi là địa “Pháp Vân” vì

cơn mưa giáo lý tối thượng tuôn đổ xuống,

vị Bồ-tát đón nhận mọi nguồn phước lành,

và thấm đẫm trong hào quang của chư Phật.

 

Ở giai đoạn này, các vị Bồ-tát dần nhập vào các tầng thiền định sâu hơn và phát triển các năng lực thần thông vô hạn. Họ trau dồi Tuệ Giác Tối Thượng Ba-la-mật - nhờ tăng trưởng tuệ giác siêu thế của mình mà các ba-la-mật khác cũng được củng cố. Kết quả là họ được an lập trong niềm hân hoan của các giáo thuyết.

 

Chư Bồ-tát sở hữu được các thân hoàn hảo của Phật, và tâm thức họ được gột rửa khỏi những dấu vết vi tế nhất của phiền não. Họ hóa hiện thành vô số hình tướng để làm lợi lạc cho chúng sinh khác và vượt qua các quy luật thông thường của thời gian và không gian. Họ có thể đặt toàn bộ Pháp giới vào trong một lỗ chân lông duy nhất mà không làm lỗ chân lông biến mất hoặc phải tăng kích thước của nó lên. Khi tiến hành việc này, chúng sinh sống trong các cảnh giới không cảm thấy khó chịu, và chỉ những vị Bồ-tát cao cấp mới nhận biết được chuyện gì đang xảy ra.

 

Bồ-tát ở cấp độ này nhận được một hình thức quán đảnh từ vô lượng chư Phật. Nó được gọi là “những luồng sáng vĩ đại," bởi chư vị Bồ-tát phóng chiếu hào quang khắp mọi phương hướng. Quán đảnh này giúp họ loại bỏ những chướng ngại còn lại đối với năng lực toàn tri và cho họ thêm sự quả quyết và sức mạnh. Vào thời điểm cuối cùng của giai đoạn này, họ bước vào một trạng thái thiền định được gọi là “kim cương định” trong đó những chướng ngại vi tế nhất còn sót lại đối với Phật quả được khắc phục. Sau đó, họ xuất khỏi định này như một vị Phật.

 

11. Địa Thứ Mười Một. Phật Địa.

 

Đỉnh cao của đạo lộ diễn cấp độ cuối cùng, được gọi là “Phật Địa.” Theo Kinh Giải Thâm Mật

 

Bởi vì đã giác ngộ hoàn toàn và thấu suốt về mọi khía cạnh của đối tượng tri thức, và đã từ bỏ những bám chấp hay chướng ngại cực vi tế ngăn trở năng lực toàn tri, nên cấp độ thứ mười một được gọi là “Phật Địa.”

 

Luận Sư Long Thọ khẳng định rằng không thể mô tả trạng thái siêu việt của một vị Phật bằng ngôn từ; chúng sinh bình thường thậm chí còn không thể bắt đầu tưởng tượng về quả vị đó.

 

Trạng thái của Phật quả thì rất khác biệt,

Tất cả phương diện đều không thể nghĩ bàn...

Những phẩm chất vô biên của vị Phật cũng

tương tự như không gian, đất, nước, lửa, gió,

luôn luôn hiện diện cùng khắp mọi phương hướng.

Nếu một người nghĩ nhân duyên của Phật quả

là hữu hạn và có thể tính đếm được,

thì người đó chắc chắn không thể nào tin

những phẩm tính của chư Phật là vô lượng.

 

Tại thời điểm này, mọi phiền não đã được khắc phục, và ánh sáng tự nhiên của tâm phát tỏa. Thậm chí, nơi tâm của chư vị không còn khởi lên ý niệm tiến hành các việc vì lợi ích của chúng sinh khác, nhưng do đã trau dồi lòng bi mẫn theo vô lượng cách trong một khoảng thời gian không thể nghĩ bàn, nên lòng bi mẫn của Đức Phật tiếp tục biểu hiện một cách tự nhiên. Tâm Phật đã đạt đến trạng thái toàn giác, không bị những chướng ngại hay giới hạn nào ngăn trở. Trí tuệ toàn tri này của Phật quả thấu suốt tất cả các cảnh giới, mọi sự vật, mọi khía cạnh và mọi phương thời.

 

Ngoài ra, Đức Phật còn thị hiện ba thân: (1) Chân Thân (chos kyi sku,dharma-kāya); (2) Báo Thân (Longs spyod pai sku, sambhoga-kāya); và (3) Hóa Thân (sprul sku, nirmāna-kāya). Chân Thân được chia thành hai phương diện: Tuệ Giác Thân (ye shes chos sku, jñāna-dharma-kāya) và Thể Tánh Thân (ngo bo nyid chos sku, svabhāvika-dharma-kaya). Tuệ Giác Thân đề cập đến tâm thức toàn giác của một vị Phật, và Thể Tánh Thân là phương diện tánh Không của tâm thức đó. Báo Thân là một dạng sắc tướng thanh tịnh (theo Phật giáo Tây Tạng, thân này được tạo ra từ những năng lượng vi tế, do “khí” kết hợp với ý thức) và hiện hữu trong cảnh giới thanh tịnh. Hóa Thân là những biểu hiện vật chất mà chư Phật tạo ra để làm lợi lạc chúng sinh.

 

Bài viết liên quan