MỘT VÀI SUY NGẪM VỀ VIỆC THỰC HÀNH - TRÍCH: HIỂU BIẾT CHÍNH MÌNH - ALBERT LOW - Việt dịch: Hội Nguyên Yên Bình - NXB Thiện Tri Thức, 2025

MỘT VÀI SUY NGẪM VỀ VIỆC THỰC HÀNH

TRÍCH: HIỂU BIẾT CHÍNH MÌNH - ALBERT LOW

Việt dịch: Hội Nguyên Yên Bình - NXB Thiện Tri Thức, 2025

--o0o--

Ngay cả khi bạn đã thực hành trong một thời gian, bạn vẫn nên tự hỏi mình câu hỏi này theo định kỳ, đặc biệt là khi bạn dường như bị mắc kẹt, không đi đến đâu cả và chỉ bị dồn vào chân tường.
MỘT VÀI SUY NGẪM VỀ VIỆC THỰC HÀNH - TRÍCH: HIỂU BIẾT CHÍNH MÌNH - ALBERT LOW - Việt dịch: Hội Nguyên Yên Bình - NXB Thiện Tri Thức, 2025

 

Tại sao người ta thực hành Thiền? Đây là một câu hỏi quan trọng đối với người mới bắt đầu. Bất cứ khi nào có ai đó đến Trung tâm để tìm hiểu về việc thực hành Thiền, chúng tôi luôn hỏi người đó, “Tại sao bạn muốn làm điều đó?” Chúng tôi cũng nhấn mạnh câu hỏi này trong các buổi hội thảo; trên thực tế, bài nói chuyện đầu tiên được đưa ra tại một buổi hội thảo, ở một mức độ lớn hơn là để khiến những người tham gia suy nghĩ thật nghiêm túc về điều đó.

Một lợi thế của việc làm này là nó phơi bày những kỳ vọng viển vông mà người ta có. Nhu cầu mà chúng ta có khi còn nhỏ là trở nên thấu suốt và vô hạn, toàn tri và toàn năng, là một nhu cầu rất thường tồn tại ở cấp độ tiềm thức của tâm trí. Chúng ta mong đợi rằng theo một cách nào đó, những mong muốn trở nên vô hạn và thấu suốt này sẽ được hoàn thiện thông qua việc thực hành Thiền, rằng bằng cách nào đó việc thực hành sẽ mang lại cho chúng ta những sức mạnh và khả năng mà chúng ta cảm thấy mình nên có nhưng hiện tại thì không. Bởi vì thiền thường gắn liền với thần thông và niềm tin rằng đó là cách để có được thứ gì đó mà không phải trả giá, nên nó gắn liền với những ham muốn ẩn giấu này.

Những kỳ vọng này, và các tiêu chí mà chúng đưa ra để đánh giá việc thực hành của chúng ta, khiến chúng ta không hài lòng với chúng và với chính mình. Bằng cách đặt câu hỏi một cách chân thành tại sao chúng ta thực hành, chúng ta có thể làm tan rã những kỳ vọng đó bằng cách nhìn vào chúng, nhìn chúng theo đúng giá trị của chúng. Điều này có thể giải thoát chúng ta khỏi một gánh nặng lớn. Khi nói “nhìn vào chúng,” tôi muốn nói đến việc cho phép bất cứ điều gì xuất hiện đi qua ánh sáng thuần khiết của nhận thức, và do đó tích hợp và trở thành một phần của tổng thể hài hòa. Nếu chúng ta có thể sống mà không có kỳ vọng, chúng ta sẽ không bao giờ thất vọng. Thất vọng là sự vi phạm kỳ vọng, và phần lớn sự tuyệt vọng mà mọi người phải chịu đựng đều xuất phát từ sự vi phạm này. Từ nguyên của từ kỳ vọng (expectation) là ex, có nghĩa là “bên ngoài,” và spectore, có nghĩa là “nhìn.” Do đó, kỳ vọng có nghĩa là nhìn ra bên ngoài chính mình. Kỳ vọng quay lưng lại với “cái đang là” và hướng tới cái sẽ hoặc nên là. Việc thực hành Thiền đi theo hướng hoàn toàn ngược lại.

Ngay cả khi bạn đã thực hành trong một thời gian, bạn vẫn nên tự hỏi mình câu hỏi này theo định kỳ, đặc biệt là khi bạn dường như bị mắc kẹt, không đi đến đâu cả và chỉ bị dồn vào chân tường. Hãy tự hỏi mình, “Tại sao tôi lại làm điều này? Điều gì khiến tôi thực hành điều này?” Một trong những vấn đề là sau khi chúng ta đã thực hành một thời gian, điều đó thường trở thành một thói quen, chỉ là một việc khác để làm, một cách khác để giết thời gian. Nó lại trở thành một cách khác để đời sống trôi qua một cách máy móc. Một lý do quan trọng để thực hành Thiền là để nhìn vào chính tính máy móc này, nhưng nếu bản thân việc thực hành đã trở thành một hoạt động trong số tất cả những hoạt động khác, thì nó không còn giá trị gì cả. Bằng cách nhắc nhở bản thân về lý do tại sao chúng ta thực hành, chúng ta có thể phá vỡ quá trình máy móc này.

Mặc dù lúc đầu chúng ta có thể có một số yêu cầu phi thực tế, nhưng hẳn ta cũng có thể có một số lý do hoàn toàn chính đáng để thực hành. Trong phần mở đầu của Một lời mời thực hành Thiền, tôi đề xuất một vài lý do: giải tỏa căng thẳng, bình an về mặt tâm lý, tập trung tốt hơn, tăng khả năng sáng tạo. Tuy nhiên, nếu một hoặc nhiều lý do trong số này là lý do duy nhất, nếu chúng ta chỉ nhìn vào thiền theo cách này, chúng ta sẽ giảm nó xuống thành một loại cuộc mua sắm. Khi mua sắm, chúng ta thường làm như vậy với hy vọng tìm thấy thứ gì đó có thể thỏa mãn cơn đói. Nhưng có bao nhiêu lần, ngay tại thời điểm mở gói những thứ đã mua, có phải chúng ta chỉ nếm thấy bụi tro và nhận ra rằng chúng ta đã không làm gì để thỏa mãn cơn đói của mình và nếu có, thì chỉ đơn giản là làm nó bùng phát? Trong Thiền cũng có thể như vậy. Rất có thể chúng ta sẽ có được thứ mình muốn, nhưng cũng có thể xảy ra trường hợp chúng ta không muốn thứ mình có được.

Tại sao người ta thực hành? Khi đào sâu vào câu hỏi này, suy nghĩ về nó, trầm tư về nó, thiền định về nó, đẩy nó đến tận cùng, bạn sẽ nhận ra rằng bạn không biết tại sao mình thực hành. Nhưng đây là loại “Tôi không biết” nào? Nó không có nghĩa là bạn bị lẫn lộn và bối rối vì nhiều ý tưởng và lý thuyết xung đột. Đúng là một số người trong chúng ta là như vậy, nhưng sau đó chúng ta nên dành thời gian để suy xét kỹ lưỡng hơn về mọi thứ. Nhưng ngay cả như vậy, ngay cả sau công việc này, chúng ta vẫn không thể thực sự hình thành hoặc khái niệm hóa lý do tại sao chúng ta thực hành.

Câu “Tôi không biết” này được thúc đẩy bởi một động lực mạnh mẽ, bởi một nỗi khao khát, một sự mong mỏi. Có vẻ như cuộc sống đang thiếu một điều gì đó là nền tảng, nhưng chúng ta không thể đặt tên cho nó. Trên thực tế, chúng ta có thể nghĩ rằng “Giá như tôi có thể có một công việc tốt hơn, một người bạn đời yêu thương hay thấu hiểu mình hơn, sống ở một nơi khác, mọi thứ sẽ tốt hơn.” Và người ta có thể nghĩ như vậy, trong một thời gian. Nếu chúng ta đắm chìm trong sự thiếu hụt này, đôi khi cũng có vẻ như chúng ta đã đi sai đường trong quá khứ hay bỏ lỡ một điều quan trọng nào đó, hoặc một năng khiếu nào đó chưa được phát huy. Chúng ta đau đớn, cảm thấy một nỗi khao khát sâu sắc, một nỗi đau đớn sâu sắc. Tự hỏi tại sao chúng ta thực hành, từ chối chấp nhận những lời sáo rỗng có sẵn, đắm mình vào câu hỏi - bản thân điều này đã trở thành sự thực hành. Rất thường xuyên trong các buổi thảo luận, chúng ta nói rằng lý do chúng ta thực hành là để tìm ra lý do tại sao chúng ta thực hành. Mặc dù điều này có một âm hưởng Thiền tính vui nhộn, nhưng trong nó vẫn chứa đựng một chút sự thật.

Martin Heidegger đã cảnh báo rằng mối nguy hiểm lớn nhất của thời đại chúng ta là chúng ta có thể trở nên quá say mê, quá thích thú, quá đắm chìm vào tư duy công nghệ đến mức tư duy thiền định có thể hoàn toàn biến mất. Điều này đặc biệt đúng với tư duy kỹ thuật vốn là nền tảng cho nhiều nghiên cứu về bản chất của sự sống và tâm trí. Chúng ta bị choáng ngợp bởi khả năng công nghệ mà chúng ta có, đặc biệt là trong lĩnh vực công nghệ máy tính, và ý tưởng rằng chúng ta có thể nhìn sâu hơn vào những điều bí ẩn của cuộc sống thông qua thiền định hơn là tư duy tính toán hiện đã bị bác bỏ mà không cần suy nghĩ. Niềm tin rằng chúng ta có thể thu gọn những điều bí ẩn của cuộc sống thành một công thức đơn giản đã thu hút trí tưởng tượng của các nhà nghiên cứu. Trên thực tế, một trong những mục tiêu cuối cùng của khoa học, theo Stephen Hawking, là thu gọn toàn bộ bí ẩn của sự tồn tại thành một công thức mà bạn có thể khoác lên trên áo phông của mình. Tuy nhiên, việc cởi mở với bí ẩn của tâm trí, nghĩa là cởi mở với khả năng biết nhưng không bao giờ có thể nói ra những gì chúng ta biết, có thể là nỗ lực đáng giá nhất của cuộc sống.

Sự nhấn mạnh cực độ vào nghiên cứu thực chứng và niềm tin rằng những điều bí ẩn chỉ đơn giản là những câu hỏi được thiết lập một cách cẩu thả có sự tương ứng với niềm tin ngày càng mạnh rằng về cơ bản chúng ta là khán giả và mục đích trong cuộc sống là có càng nhiều lựa chọn càng tốt để chúng ta có thể quan sát mà không bị ảnh hưởng trực tiếp. Chúng ta đang mất liên lạc với thế giới của cảm xúc và suy nghĩ, ý tưởng, cảm giác, thôi thúc, khao khát và sự thất vọng hơn là những thứ được tạo ra một cách nhân tạo bởi thiết bị điện tử. Đối với nhiều người, tâm trí của họ, với những khát khao và cảm xúc riêng, chỉ là một vùng đất chưa được biết đến. Khi nói chuyện với người khác, có thể thấy rõ liệu người đó có đang thực hành một số kỷ luật tâm linh hay không. Người ta có thể được giới thiệu với một người hoàn toàn xa lạ và trong một thời gian ngắn biết được liệu người đó có được đào luyện tâm linh hay không. Những gì cô ấy nói, cách cô ấy nói và cách cô ấy cư xử trong mối quan hệ với người khác rất thường có những ngụ ý chỉ có thể xuất hiện thông qua việc hiểu biết sâu rộng hơn về thế giới bên trong này. Với “tương tác” điện tử, những âm điệu này đơn giản là không tồn tại.

Vì vậy, có thể nói rằng ít nhất một lý do để thiền định - mặc dù không phải là lý do căn bản nhất - là để hiểu biết về cuộc sống nội tâm của chính chúng ta, bí ẩn nền tảng của nó, cũng như để hiểu biết về các nguồn lực và động lực tạo nên nó và để thấy rõ được sự đói khát và mong mỏi đang thâm nhập vào đời sống của chúng ta. Qua thiền, chúng ta có thể hiểu được nỗi đau như là nỗi đau chứ không phải là thứ cần tránh bằng mọi giá, và chúng ta sẽ thấy được những hạn chế mà trong đó chúng ta phải làm việc. Điều này không có nghĩa là chúng ta hiểu tất cả trên bình diện tâm lý, theo phương pháp trị liệu tâm lý hay tâm lý học hoặc theo một cấu trúc lý thuyết nào đó. Thay vào đó, chúng ta có thể thấy rằng, chúng ta có những suy nghĩ, mong muốn, ý định, tất cả đều xung đột với nhau; rằng chúng ta có thể có thái độ về một điều gì đó vào hôm nay và có thái độ hoàn toàn trái ngược vào ngày hôm sau. Chúng ta có thể có thái độ trái ngược này đối với chính thiền định. Một ngày nào đó, chúng ta cảm thấy rằng đó là điều thực sự có ý nghĩa trong cuộc sống của mình, một điều rất đáng giá, và thường thì chúng ta không thể chỉ rõ điều đó có nghĩa là gì; tuy nhiên, chúng ta thực sự có cảm nhận về giá trị của nó. Vào một ngày khác, chúng ta nguyền rủa nó, ước gì chúng ta không phải bận tâm đến nó, thấy nó là gánh nặng, cảm thấy rằng nó hoàn toàn vô dụng. Chúng ta có cùng thái độ mâu thuẫn này đối với nhiều thứ khác, đối với những người khác, đối với công việc chúng ta làm, đối với chính cuộc sống. Từ mâu thuẫn này làm nảy sinh ở chúng ta nỗi đau, cảm xúc tiêu cực, sự sỉ nhục, v.v.. Bằng cách biết về những mâu thuẫn theo cách này, chúng ta có thể ngừng chống lại chúng, ngừng cố gắng làm cho chúng hợp lý hay cố gắng biện minh cho chúng với chính mình và những người khác. Khi được để yên, chúng có xu hướng tìm ra khuôn mẫu và sự hài hòa riêng, thường xóa bỏ lẫn nhau, tan biến dần trong ánh sáng của nhận thức hoặc chỉ đơn giản là tiêu tan khi chúng ta tha thứ cho chính mình.

Như Nisargadatta đã từng chỉ ra, thiền như vậy ảnh hưởng sâu sắc đến tính cách của chúng ta. Chúng ta là nô lệ của những gì chúng ta không biết, trong khi là chủ nhân của những gì chúng ta biết. Bất kỳ thói xấu hay điểm yếu nào mà chúng ta khám phá ra trong chính mình và nguyên nhân cũng như hoạt động của chúng được thấu hiểu, chúng ta sẽ vượt qua bằng chính sự hiểu biết đó. Sự sơ suất tan biến khi được đưa vào dưới ánh sáng của nhận thức. Chỉ cần mở lòng mình, bằng cách cho phép bất kỳ điều gì hiện diện trong ánh sáng của nhận thức, chúng ta đã tước đi sức mạnh gây hại của nó. Chúng ta phải mở lòng mình theo cách này mà không có bất kỳ sự phán xét nào, không cần phải tích hợp, thay đổi hoặc làm điều gì khác về bất kỳ điều gì xuất hiện. Đây là sự tương ứng của thiền với lời răn của Chúa Kitô “Hãy yêu thương kẻ thù và cầu nguyện cho kẻ ngược đãi anh em.” Đây là một thực hành rất khó khăn, đặc biệt là khi có sự lo lắng sâu sắc, cơn giận dữ dội hoặc cảm giác thất bại và lãng phí cuộc sống của chúng ta. Nhưng, tuy nhiên, nếu chúng ta nhất tâm đi theo hướng này, không nhất thiết mỗi lần đều phải mở lòng hoàn toàn mà không phán xét, chúng ta sẽ thấy ngày càng nhiều hơn rằng những trải nghiệm đau đớn này đều dựa trên những suy nghĩ, rằng chúng xuất phát từ một nhận thức méo mó che giấu một nỗi đau sâu thẳm hơn, mà đến lượt nó có thể được chuyển hóa. Chính sự thật là điều này có thể làm được, các trạng thái đau đớn trong nhận thức là có thể giải tỏa được, mang lại cho chúng ta một sự tự tin và đảm bảo mới rằng chúng ta có thể đương đầu với sự phức tạp của đời sống.

Tuy nhiên, đôi khi chúng ta bị cuốn đi bởi những cách phản ứng cực kỳ có tính hủy diệt với các tình huống và những khó khăn, v.v.. Chúng quá mạnh mẽ và đau đớn đến nỗi chúng ta không thể chỉ ngồi yên với chúng. Đương nhiên chúng ta muốn thay đổi điều này - chúng ta muốn kiểm soát nó - nhưng ta càng đấu tranh, nó càng trở nên tồi tệ hơn. Trong trường hợp này, chúng ta nên bắt đầu với một mong nguyện rằng chúng ta có thể mở lòng đón nhận nó. Một mong nguyện có sức mạnh riêng của nó, nhưng thật không may, chúng ta đã thu hẹp và khiến chúng chỉ vận hành trong truyện cổ tích mà bỏ qua sức mạnh này. Mong nguyện một cách mãnh liệt là một hình thức cầu nguyện, nó đi kèm với một loại hiểu biết năng động nhất định, và việc thực sự ước mong hoặc cầu nguyện hay mở lòng mình với toàn bộ khả năng là một cách rất uy lực để giải quyết loại khó khăn này. Nếu có thể, tốt nhất là mong nguyện theo cách này khi có sự hiện diện của hình ảnh một vị Bồ tát về lòng từ bi hoặc, nếu bạn là một người theo đạo Thiên chúa, khi có sự hiện diện của hình ảnh của Đức Mẹ Maria. Cả hai đều là biểu hiện của tình yêu thương - của sức mạnh gắn kết sâu sắc từ sự hợp nhất - mặc dù vượt qua mọi hình tướng, nhưng vẫn có thể được khơi dậy bằng hình tướng đối với một số người. Tuy nhiên, khi làm như vậy, bạn không bao giờ nên có ý muốn được tránh khỏi hệ quả của loại khó khăn có tính hủy diệt này, mà thay vào đó, bạn nên mong nguyện có đủ sức mạnh để trả hết khoản nợ mà bạn đã mắc phải do có khó khăn đó.

Gurdjieff nói rằng mọi thứ đều bắt đầu bằng một mong ước, “Tôi nguyện, tôi có thể, tôi sẽ.” Điều này cũng đúng nếu bạn thực sự muốn thực hành. Đôi khi, việc thực hành trở thành gánh nặng; bạn không biết phải làm gì. Vào những lúc như vậy, chúng ta có thể muốn thực hành, muốn mở lòng mình, thu thập những sức mạnh sâu thẳm hơn bên trong chúng ta, kêu gọi những năng lực lớn lao hơn của lòng trắc ẩn và trí tuệ để giúp chúng ta phá vỡ những rào cản này, không phải bằng cách loại trừ chúng mà bằng cách giúp chúng ta tìm thấy sức mạnh để duy trì chúng, mở lòng với chúng.

Tôi nhớ những lần trong quá trình thực hành của mình tại Trung tâm Thiền Rochester, khi tôi lạc vào bóng đêm, mắc kẹt trong ngõ cụt không lối thoát. Đôi khi tôi không biết phải làm gì tiếp theo, nên ngồi xuống hay bỏ chạy, nên cố gắng hay bỏ cuộc. Như thiền sư Lâm Tế đã nói, “bóng tối bao trùm khắp nơi.” Bên cạnh thiền đường là một điện thờ Đức Quan Âm, vị bồ tát của lòng từ bi, và tôi sẽ ngồi trong căn điện này trong sự mời gọi của việc cầu nguyện, lòng mong mỏi hay thiền động - gọi thế nào cũng được - chẳng phải từ tôi mà từ vị bồ tát như là sự biểu lộ trọn vẹn nhu cầu của tôi. Chỉ cần ở trong sự hiện diện này cũng có thể rất, rất hữu ích. Nếu không thể có một vị bồ tát, thì luôn có thể có một bức tranh. Nhưng dù là gì đi nữa, đó cũng có thể giúp bạn tạm buông chính mình mà không cần xác định rõ ràng rằng bạn đang làm thế vì điều gì. Nói rằng bạn đang buông mình vào những điều tốt đẹp trong sự hiện diện bình thường của mình theo cách trọn vẹn nhất có thể, chừng đó là đủ.

Khi nhận thức được những mâu thuẫn của mình, chúng ta có thể thấy được nỗi đau mà chúng có thể gây ra cho chính mình và những người khác. Trong một chừng mực, trừ khi chúng ta hài hòa với chính mình ở một mức độ nào đó, việc thực hành sẽ cực kỳ khó khăn. Sự thực hành cởi mở với những gì đang là và mong muốn được hài hòa với chính mình, mong muốn trở thành một, mong muốn được hòa hợp, đối với hầu hết mọi người có thể là một khía cạnh cực kỳ quan trọng của việc thực hành. Mặc dù vậy, theo một góc nhìn khác, tất cả những điều này vẫn là một hình thức mua sắm và là thứ yếu so với mục đích của việc thực hành Thiền.

Tuy nhiên, bằng cách là một với chính mình - bất kể trong hoàn cảnh nào - bằng cách bao hàm những mâu thuẫn, đồng bộ bản thân với sức mạnh của sự hợp nhất, tâm trí trở nên tĩnh lặng, giống như một trang giấy trắng, như Bạch Vân An Cốc gọi. Nisargadatta nói với chúng ta, “Khi tâm tĩnh lặng, chúng ta sẽ biết mình là chứng nhân thuần túy.” Thực hành này trong tiếng Nhật được gọi là shikantaza, thường được dịch là “chỉ ngồi.” Tuy nhiên, chúng ta phải cẩn thận vì chúng ta có thể nghĩ rằng mình đang thực hành shikantaza nhưng thay vào đó chỉ đơn giản là quan sát tâm trong tấm gương của tâm, một trạng thái được các bậc Thiền sư gọi là “hầm giải thoát giả tạo” hoặc “hang động của quỷ dữ.” Hơn nữa, điều mà Nisargadatta gọi là “biết mình là nhân chứng” khá khác với việc quan sát, và sự khác biệt giữa hai điều này quan trọng đến mức chúng ta phải dừng lại tại đây trong lúc này.

Từ nhân chứng (witness) xuất phát từ một từ tiếng Anh cổ wit, có nghĩa là “biết.” Điều này khác với việc chỉ đơn giản là một người quan sát. Tâm có hai chế độ tồn tại: một là chế độ của người tham gia, và chế độ kia là chế độ của người quan sát. Đây là hai quan điểm trái ngược nhau. Góc độ của người tham gia là từ bên trong trung tâm nhìn ra bên ngoài. Góc độ của người quan sát là từ bên ngoài nhìn vào phía trung tâm. Hai quan điểm này có giá trị ngang nhau và phát sinh đồng thời trong mỗi một cá nhân. Chúng phụ thuộc lẫn nhau nhưng đồng thời đối kháng lẫn nhau, và do đó có khả năng gây chiến với nhau.

Một cách để giải quyết chiến tranh là chỉ cần trở thành người quan sát thuần túy. Những người đi theo con đường này có thái độ hơi hoài nghi, mỉa mai và có xu hướng phân tích quá mức các tình huống, chỉ trích hoàn cảnh của họ và bản thân họ một cách rất gay gắt để luôn giữ khoảng cách với mọi thứ. Những người như vậy luôn muốn giữ thái độ thản nhiên và không can dự, và thái độ này cuối cùng dẫn đến một mối quan hệ lạnh lùng với chính bản thân họ và với thế giới. Đi kèm với điều này thường là một cảm giác giận dữ vô căn cứ.

Chế độ thay thế là chế độ của người tham gia. Những người này tự ném mình vào các tình huống một cách tùy tiện, vô ích. Họ luôn luôn hoặc là cực kỳ nhiệt tình với mọi thứ hoặc là cực kỳ chán nản. Cuộc sống của họ là vở kịch này nối tiếp vở kịch khác. Họ luôn kết thúc trong tình trạng tả tơi, cuộc sống của họ thiếu sự hòa hợp, và họ có xu hướng rất cáu kỉnh với người khác khi những người khác này không tham gia và nhiệt tình như họ về mọi thứ, hay khi người ta không thông cảm với họ khi họ chán nản, không biết phải quay về hướng nào.

Hai chế độ này tồn tại ở một mức độ nào đó trong mỗi chúng ta. Rõ ràng là “chế độ quan sát” khuyến khích một cách tiếp cận giả Tào Động vì Tào Động nhấn mạnh vào shikantaza. “Chế độ tham gia” khuyến khích một cách tiếp cận giả Lâm Tế, nhầm lẫn giữa sự phấn khích, xáo trộn cảm xúc với sự nhiệt tâm và nỗ lực cần có theo cách của Lâm tế. Nhưng vượt trên hai chế độ này là sự chứng kiến - sự hiện diện thuần túy, nhận thức thuần túy. Sự chứng kiến là sự tĩnh lặng vang vọng, sự im lặng sống động mà từ đó mọi thứ xuất hiện, bao gồm không chỉ âm thanh mà còn tất cả màu sắc, hình dạng, mùi vị, cảm giác, hoạt động và không hoạt động, và chuyển động và bất động.

Khi tâm tĩnh lặng, sự tĩnh lặng có thể được nghe thấy. Ngay cả giữa thảm họa hay trong trận chiến, sự tĩnh lặng vẫn hiện diện. Nhân chứng - nhận thức sáng tỏ, thuần khiết - không bao giờ vắng mặt. Nisargadatta nói, “Khi tâm tĩnh lặng, chúng ta rút lui khỏi kinh nghiệm và người kinh nghiệm và đứng trong nhận thức thuần khiết.” Cụm từ “kinh nghiệm và người kinh nghiệm” là một cách khác để nói về người tham gia và người quan sát. Sự rút lui này đã là một bước tiến lớn trong quá trình thực hành. Tuy nhiên, bạn phải cẩn trọng vì chỉ nhìn vào sự tĩnh lặng không phải là mục đích của quá trình thực hành. Thiền sư Bạt Tụy (Bassui), trong Ba trụ Thiền (The Three Pillars of Zen), muốn chúng ta không dừng lại khi gặp phải sự yên tĩnh và trong lặng này. Ông nói, “Theo thời gian, những suy nghĩ của một người sẽ lắng xuống, và người đó trải nghiệm một khoảng không giống như bầu trời không mây. Tuy nhiên, bạn không được nhầm lẫn điều này với sự giác ngộ.” Ông nói rằng chúng ta phải tiếp tục, đi sâu hơn. “Chỉ sau khi cuộc tìm kiếm của bạn đã thấm nhuần vào từng lỗ chân lông và sợi tơ của bản thể bạn thì không gian trống rỗng mới đột nhiên tan vỡ và khuôn mặt của bạn trước khi cha mẹ bạn chào đời mới xuất hiện.”

Sai lầm mà chúng ta thường mắc phải là nhầm lẫn giữa người quan sát hoặc người tham gia với người chứng kiến. Điều này dẫn chúng ta đến một cuộc sống nội tâm hoặc là cứng nhắc hoặc rất hỗn loạn. Người họa sĩ là một phần của bức tranh, người kinh nghiệm là một phần của kinh nghiệm. Phản ứng của bạn đối với tình huống là một phần của tình huống. Cả người quan sát và người tham gia đều là người chứng kiến. Mọi người nói, “Tôi thực sự chán ngấy; tôi không biết phải làm gì. Tôi quá mệt mỏi, tôi phát chán với mọi thứ; tôi thực sự ước tôi biết mình có thể làm gì.” Bây giờ, “cái tôi” quá mệt mỏi, quá ốm yếu, đến nỗi nó ước mình biết... cũng là một phần của tình huống. Tất cả những cảm xúc đó tồn tại trong một môi trường; đó là sự tĩnh lặng, và vượt trên sự tĩnh lặng là “khuôn mặt trước khi cha mẹ bạn chào đời,” “tiếng vỗ của một bàn tay.” Chúng ta không thể sắp xếp mọi thứ ở cấp độ của người kinh nghiệm và kinh nghiệm, cấp độ của người tham gia và người quan sát, tất cả những gì có thể có ở cấp độ này là một cuộc đình chiến hoặc chiến tranh. Hòa bình nằm ngoài cả hai. Trong thiền, chúng ta không nên tìm kiếm sự bình an, vì một cuộc tìm kiếm như vậy sẽ được tiến hành ở cấp độ của những sự đối lập, sử dụng một loại chiến lược này hay chiến lược khác, và điều này ở mức tốt nhất cũng chỉ mang lại một giải pháp tạm thời. Chúng ta phải đi xuyên qua, chứ không phải thoát khỏi tình huống.

Tính cách dựa trên sự tự nhận dạng khi “Tôi” tưởng tượng mình là một cái gì đó và nói, “Tôi là cái này” hoặc “Tôi là cái kia.” Sự tự nhận dạng xuất phát từ nhu cầu đạt được một mốc trọng tâm hoặc định hướng, đến lượt nó xuất phát từ nhu cầu căn bản của cuộc sống - để định vị bản thân. Trong quá khứ, con người đã sử dụng nhiều cách khác nhau để đảm bảo một mốc định hướng hoặc trọng tâm, và tôi đã đề cập đến điều này khá dài trong các cuốn sách khác của mình. Ban đầu, mốc trọng tâm là “bên ngoài”: một cây thiêng, một cột vật tổ (totem), một lá cờ, một biệt danh, một thần tượng, mỗi thứ trong số này trong quá khứ đã đóng vai trò là một trọng tâm, một mốc định hướng căn bản để cấu trúc xung quanh đó những gì chúng ta biết là kinh nghiệm và sự tồn tại. Ngày nay, chúng ta đã đưa trọng tâm vào bên trong và gọi nó là “Tôi.” Tuy nhiên, “Tôi” là một lời hứa; là thứ mà chúng ta sẽ đạt được. Chúng ta liên tục chạy trốn sau khả năng rằng cuối cùng tôi sẽ tìm ra tôi là gì. Đây là nguyên nhân gây ra nhiều sự kiệt sức và tuyệt vọng của chúng ta. Chỉ buông xả thôi cũng khiến chúng ta cảm thấy rất khó chịu, vì không phải là buông vào sự bình yên mà là vào chính những xung đột và sự bất định làm nảy sinh nhu cầu tìm hiểu xem chúng ta là ai hoặc là gì. Nhưng nếu buông theo cách này, chúng ta có thể vượt qua những âm mưu và những va chạm của tính cách.

Cảm giác mà chúng ta có thể có - rằng chúng ta sắp đạt được mục tiêu cuối cùng, đạt được sự ổn định và an toàn cuối cùng và tuyệt đối - giữ cho bánh xe đau khổ tiếp tục quay. Chúng ta thúc đẩy bản thân để đạt được vài đích đến cuối cùng, có thể là một mối quan hệ, một vị trí trong công ty, một sự công nhận nào đó, v.v. Sự thúc đẩy này cũng không phải lúc nào cũng theo hướng tích cực. Mọi người có thể thúc đẩy bản thân theo hướng tiêu cực, ngày càng hướng đến nỗi đau và nỗi buồn của mình, hy vọng theo cách này sẽ tìm thấy sự an toàn cuối cùng, họ cho rằng nếu họ có thể khốn khổ hơn một chút, họ thực sự sẽ tìm ra bản chất của mình. Làm tổn thương bản thân theo cách này cũng xuất phát từ cùng một nhu cầu định vị, để cuối cùng tìm ra bản chất của chính mình.

Một vài, hay có lẽ là hầu hết mọi người sợ rằng nếu họ thực sự thức tỉnh; nếu họ thực sự đẩy câu hỏi “Tôi là ai” đến tận cùng, thì lúc đó họ sẽ hoàn toàn không còn tồn tại nữa. Nỗi sợ này - rằng bằng cách nào đó tôi sẽ biến mất - ám ảnh quá trình thực hành ban đầu của tôi. Tôi sợ rằng sự thức tỉnh sẽ không phải là sự viên mãn mà là sự nhận chìm. Thật khó để diễn tả, nhưng cảm giác đó giống như đang ở bờ vực thẳm đang sụt xuống. Nỗi sợ này đeo bám tôi trong một thời gian dài. Tuy nhiên, vấn đề không phải là sự thức tỉnh mà là sự đồng nhất, mang theo niềm tin rằng một người là, hoặc ít nhất, nên là, cái tuyệt đối. Thế giới liên tục từ chối chấp nhận yêu sách của chúng ta, và vì vậy chúng ta trở thành một người đầy tham vọng, hung hăng, hùng hổ, luôn luôn hành động. Chúng ta cảm thấy, “Tôi chỉ cần làm thêm một chút nữa và tôi sẽ biến nó thành tuyệt đối.” Cảm giác này là thứ khiến tôi gục ngã. Niềm tin rằng chúng ta có thể đạt được sự viên mãn tối thượng bằng cách trở thành một thứ gì đó trong thế giới này đã tan biến. Mọi thứ khác vẫn diễn ra như thường lệ, nhưng thay vì là những động cơ tự lực năng động, chúng ta trở thành những con rối. Trước khi sự viên mãn có thể xảy ra, chúng ta phải đối mặt và từ bỏ nhu cầu trở thành những cá nhân tuyệt đối hay những cá nhân riêng biệt.

Bạn có thể hỏi, “Mục đích của việc này là gì, mục đích của việc biết chính mình là gì? Nó có ích gì? Nó sẽ giúp gì cho tôi nếu tôi biết điều này?” Câu hỏi này xuất phát từ một ý tưởng hiện đại nhưng rất kỳ lạ rằng mọi thứ đều phải phục vụ một mục đích nào đó, mọi thứ đều phải có công dụng; rằng không có gì có mục đích tự thân. Thái độ này là nguyên nhân gây ra căng thẳng và khiến chúng ta bận rộn trong cuộc sống. Trong khi chúng ta bám vào ý tưởng này, chúng ta không thể chỉ ngồi xuống và đọc một cuốn sách, tận hưởng một cuộc trò chuyện với ai đó, hoặc thậm chí thưởng thức một bữa ăn ngon, bởi vì những gì chúng ta làm phải phục vụ một mục đích; nó phải có ý nghĩa. Khi chúng ta thực hành, thì rõ ràng là mọi thứ đều có ý nghĩa riêng của nó. Không cần thiết phải có thứ gì đó phục vụ cho thứ khác vì mọi thứ đều có giá trị cố hữu. Bạch Vân An Cốc từng nói rằng ngay cả một chiếc cốc nứt cũng hoàn hảo. Dù bạn là ai, ngay cả khi bạn là một chiếc cốc nứt, bạn vẫn hoàn hảo, bạn không cần phải phục vụ bất kỳ thứ gì khác, bạn không cần phải là một người hữu ích trên thế giới này. Tôi không có ý nói rằng bạn không phải thực hiện bất kỳ nghĩa vụ nào mà cuộc sống mang đến cho bạn. Tất nhiên, bạn nên thực hiện những nghĩa vụ này và thực hiện chúng tốt nhất có thể, nhưng bạn nên từ bỏ tuyên bố rằng bất cứ điều gì bạn làm đều có giá trị tuyệt đối, tối thượng.

Philip Kapleau trong một bài nói chuyện đã từng kể với chúng tôi về một người đàn ông là bác sĩ, người đã trải qua chiến tranh Thái Bình Dương và đã phải hứng chịu vài nỗi kinh hoàng của cuộc chiến đó. Những trải nghiệm này đã phá vỡ toàn bộ cảm giác cân bằng của ông. Sau chiến tranh, ông bị trầm cảm và lo lắng hành hạ đến mức không biết phải làm gì. Ông liên tục tự hỏi mình, “Tôi ở đây để làm gì? Tôi có ích gì? Tôi phải làm gì?” Vì ông là bác sĩ nên ông cũng tự hỏi mình, “Làm bác sĩ để làm gì? Làm bác sĩ có ích gì?” Ông để cho mình hoàn toàn bị câu hỏi này chi phối, hoặc có lẽ không phải là ông cho phép nó như vậy mà chỉ đơn giản là ông không thể không bị nó chi phối. Tuy nhiên, cuối cùng, ông đã thoát khỏi chứng trầm cảm. Ông tự nhủ, “Tôi là bác sĩ vì tôi là bác sĩ. Vậy là đủ rồi!” Bất kể bạn đang làm gì, bất kể bạn có vai trò gì trong cuộc sống, hãy làm nhưng đừng mong muốn nó có ích. Không nhất thiết phải có cảm giác rằng bạn đang phục vụ cho một định mệnh tối thượng của thế giới. Nhu cầu này nảy sinh khi chúng ta đang tìm kiếm một định vị và muốn nó là tuyệt đối và được tôn vinh. Khi chúng ta có thể buông bỏ trò chơi này và chỉ trở về với chính mình, thì chúng ta sẽ thấy, như thiền sư Bạch Ẩn nói, “Trái đất nơi chúng ta đang đứng là Cõi Liên Hoa Thanh Tịnh. Chính thân thể này là thân thể của Đức Phật.”

Sự thật, lòng tốt, sự hài hòa và vẻ đẹp biểu hiện một cách tự nhiên, nhưng hầu hết mọi người đều không nhận thức được điều này. Những ham muốn xung đột, thái độ, mong muốn nắm bắt và chiếm hữu, mong muốn trở thành và trở nên vượt trội, và tất cả những thứ còn lại đều ngăn cản nhận thức này. Nhưng khi mọi thứ được để tự nhiên, không can thiệp, không xa lánh hay mong mỏi, không khái niệm hóa mà chỉ trải nghiệm, thì nhận thức đầy đủ sẽ tỏa sáng. Chỉ cần cho phép bất cứ điều gì ở đó, dù đẹp hay xấu, thiện hay ác, lành hay dữ. Chỉ ở lại với nó. Nhận thức như vậy là sự hiểu biết thuần khiết, không sử dụng sự vật và con người mà làm đầy cho họ.

Hãy tin vào trực giác sâu lắng nhất của bạn!

Bạn không đơn độc!

Bạn không điên!

Bạn không lạc đường!

Bạn đang trên Đường!

Angelus Silesus

Ảnh: nguồn Internet

 

Bài viết liên quan