NGƯỜI TẠO RA NGHIỆP, NHỮNG ĐỨC HẠNH CÔNG ĐỨC VÀ NHỮNG HÀNH VI KHÔNG ĐỨC HẠNH - LONGCHEN RABJAM - PHẬT TÂM

NGƯỜI TẠO RA NGHIỆP, NHỮNG ĐỨC HẠNH CÔNG ĐỨC VÀ NHỮNG HÀNH VI KHÔNG ĐỨC HẠNH 

LONGCHEN RABJAM - PHẬT TÂM

-------o0o-------

Những nghiệp bất thiện như thuốc độc, dù nhỏ nhưng tạo khổ lớn lao. Chúng giống như người hoang dã phá hoại những công đức tích tập được. Bởi thế, người ta cần cố gắng từ bỏ những hành vi không đức hạnh và dấn thân vào những hành vi đức hạnh.
NGƯỜI TẠO RA NGHIỆP, NHỮNG ĐỨC HẠNH CÔNG ĐỨC VÀ NHỮNG HÀNH VI KHÔNG ĐỨC HẠNH - LONGCHEN RABJAM - PHẬT TÂM

Những nghiệp đức hạnh tạo ra hạnh phúc và tái sanh trong những cõi lưu lạc hạnh phúc, và những nghiệp không đức hạnh tạo ra khổ đau và tái sanh trong những cõi thấp.

(A) NHỮNG NGHIỆP BẤT THIỆN

Có mười hành vi bất thiện khiến người ta rơi từ những cõi cao xuống những cõi thấp và chúng chỉ gây ra khổ đau.

Đó là:

Ba nghiệp bất thiện của thân:

Giết, lấy của không cho, và tà dâm.

Bốn nghiệp bất thiện của ngữ:

Nói dối, nói chia rẽ, lời thô ác và lời vô nghĩa.

Ba nghiệp bất thiện của tâm:

Tham lam, ác ý và tà kiến.

Những hậu quả của những nghiệp bất thiện

Tóm tắt: Những nghiệp bất thiện được phát sanh qua đối tượng, ý định, tư tưởng và cố gắng bất thiện. Chúng sản sanh ra ba phạm trù hậu quả. Trong những kinh điển, chúng được xếp loại thành những hậu quả của sự chín muồi (là hậu quả chính), tương hợp và nổi trội (hay môi trường). Trong những luận giảng, có bốn phạm trù, cọng thêm hậu quả lũy tích...

(1) Hậu quả của sự chín muồi: Trong kinh Arya-saddhar masmrtyupasthana có nói:

Sự chín muồi của hậu quả của một nghiệp nhỏ (trong mười nghiệp bất thiện) tạo ra sự tái sanh trong cõi thú, của một nghiệp vừa tạo ra sự tái sanh trong cõi quỷ đói và của một nghiệp nặng là tái sanh vào địa ngục.

(Sau khi hoàn tất kinh nghiệm của hậu quả của những nghiệp xấu như là hậu quả của chín muồi trong ba cõi thấp, dầu được tái sanh vào một cõi cao hơn nhờ những nghiệp thiện khác, người ta còn phải kinh nghiệm ba hậu quả sau đó nữa):

(2) Hậu quả của sự tương hợp: Nó có hai phạm trù: hậu quả tương hợp của nguyên nhân và hậu quả tương hợp của những kinh nghiệm...

(a) Về hậu quả tương hợp của nguyên nhân, trong kinh Karmasataka có nói:

Bởi vì một người đã quen với những nghiệp bất thiện dù sau khi đã kinh nghiệm hậu quả của sự chín muồi, nó sẽ sanh ra nơi nào có thể dựa vào những hành vi bất thiện và thực hiện theo đuổi chúng.

(b) Hậu quả tương hợp của kinh nghiệm: trong hậu quả này có hai loại cho mỗi cái của mười nghiệp bất thiện. Trong kinh Karmasataka nói:

Dù một người tái sanh trong cõi trời hay cõi người (nhờ những hành vi đức hạnh khác), nó vẫn còn phải kinh nghiệm những hậu quả sau đó như sau: có một cuộc sống ngắn ngủi và nhiều bệnh bởi vì nghiệp giết trong quá khứ, có ít tài sản và phải chia xẻ chúng cho những kẻ thù vì lấy của không cho, có một người hôn phối không hấp dẫn và phải chia xẻ người ấy với những người khác vì nghiệp ngoại tình, bị những người khác lừa đảo lường gạt vì nói dối, có những người sống chung xấu và bất hòa vì nghiệp vu khống, nghe những chửi mắng và (dù khi người ta nói dịu dàng) khiêu khích bởi vì đã nói lời thô ác, lời nói không được coi trọng và không được tin cậy vì đã nói vô nghĩa, trở nên tham lam và không toại ý vì tính thèm khát, ít có lợi ích mà chỉ có thiệt hại vì ác ý, và bị bao bọc bởi những quan điểm xấu và xảo quyệt vì tà kiến...

(3) Hậu quả nổi trội: Trong Semnyid Ngalso có nói: Hậu quả nổi trội ám chỉ những hậu quả trên môi trường.

Khi người ta ở trong sanh tử bị những yếu tố bên ngoài điều khiển:

Do giết (người ta sinh) vào một xứ sở xấu xí

Nơi thuốc thang, cây trái, ngũ cốc, thức ăn thức uống v.v...

Sẽ cho ít bổ dưỡng, khó tiêu hóa và dễ độc hại.

Do lấy của không cho, sanh vào một xứ sở không có ngũ cốc,

Nơi có những hiểm nguy sương mù, mưa đá, nạn đói.

Do ngoại tình, sanh giữa chỗ phân và nước tiểu, dơ bẩn, hôi thối.

Trong một xứ sở chật hẹp, đáng sợ không vui vẻ.

Do nói dối, sanh vào một xứ sở xung đột và kinh hãi

Nơi sự sung túc không bảo đảm và người ta bị người khác lừa dối.

Do nói lời chia rẽ, sanh vào một xứ sở đi lại khó khăn, núi sông hiểm trở,

Với nhiều hoàn cảnh không thuận lợi.

Do nói lời thô ác, sanh vào một xứ sở vô đạo đức, đầy sỏi đá, gai góc,

Bụi bặm, rác rưởi, ngũ cốc nghèo nàn, một môi trường gồ ghề, muối mặn.

Do lời vô nghĩa, sanh vào vùng ngũ cốc và trái cây không chín, bốn mùa bất ổn,

Nơi không có gì vững bền và lâu dài.

Do tham lam, sanh vào những xứ sở mùa màng ít mà nhiều vỏ trấu,

Những thời tốt đẹp chuyển thành xấu.

Do ác ý, sanh vào một xứ sở nơi hạt và trái có vị đắng cay,

Nơi có những người cai trị độc tài, bọn cướp, người hoang dã và rắn rít...

Nhiều hoàn cảnh gây họa hại của thiên nhiên.

Do tà kiến, sanh vào những xứ sở nơi không có nguồn chất liệu quý giá

Và ít cây thuốc, hoa và trái.

Nơi không có những chỗ nương tựa quy y, người bảo hộ hay năng lực hộ trì...

(4) Hậu quả lũy tích: Trong Arya-saddharma-smrttyu pasthana có nói: “Những người vô minh và đã phạm những hành vi xấu trong quá khứ sẽ tăng thêm những hành vi xấu của họ và sẽ chịu khổ hơn.”

Kết luận

Trong Vinayagama có nói:

Những nghiệp bất thiện như thuốc độc, dù nhỏ nhưng tạo khổ lớn lao. Chúng giống như người hoang dã phá hoại những công đức tích tập được. Bởi thế, người ta cần cố gắng từ bỏ những hành vi không đức hạnh và dấn thân vào những hành vi đức hạnh.

(B) NHỮNG NGHIỆP THIỆN

Chỉ sự vắng mặt của mười nghiệp bất thiện không trở thành mười nghiệp thiện bởi vì thiếu sự điều phục của tâm làm theo mười nghiệp thiện. Sự từ bỏ mười nghiệp bất thiện là mười nghiệp thiện khi phối hợp với sự tích tập công đức.

Những hậu quả của những nghiệp thiện

Theo những hậu quả chín muồi của chúng, những đức hạnh nhỏ đưa đến sự tái sanh trong cõi người, những đức hạnh cỡ trung sanh vào cõi thiên của dục giới, và những đức hạnh lớn, phối hợp với tham thiền, sanh vào những cõi sắc và vô sắc. Do những hành vi đức hạnh người ta thành tựu hạnh phúc của những cõi cao và niêm kín những cửa vào cõi thấp.

DUYÊN SANH

Nhân bên ngoài

Đó là những xuất hiện thuộc đối tượng của tâm thức, những xuất hiện là những hiện tượng bên ngoài như những hình tướng núi non, tường vách, đất, nước, lửa, không khí và không gian, chúng được xem là những phẩm tính phụ của các nguyên tố hay những hình dạng của các nguyên tố. Những cái này phát triển trong nhân loại khác nhau qua những nhân duyên chung và riêng biệt của chúng, như vải từ sợi và len từ sợi len. Nó được gọi là duyên sanh của những hiện tượng bên ngoài, bởi vì chúng khởi lên do nương dựa lẫn nhau và xuất hiện như những vật vô tri bên ngoài.

Nhân bên trong

(a) Nhân tương thuộc

Tiến trình từ vô minh khởi lên các hình thành (hành)... cho đến già và chết là duyên sanh bên trong.

Mười hai nhân duyên sanh lẫn nhau là: (1) không giác ngộ (vô minh): Nó là sự không biết trọn vẹn tinh túy tuyệt đối, bản tánh tuyệt đối, bản tánh vốn thanh tịnh và là những hiện tượng mang tính cách vô minh. Từ đây khởi lên sự hình thành của nghiệp, tạo thành nghiệp của sanh tử. (2) Hình thành của nghiệp: Những hành vi đức hạnh phối hợp với công đức, mười nghiệp bất thiện, và những nghiệp trung tính của thân, ngữ, tâm, chúng bị che ám bởi vô minh, là sự hình thành. (3) Thức: Bây giờ, thuận theo nghiệp được hình thành (nó được gieo trong thức của nền tảng phổ quát), người ta đi vào một trong sáu nẻo lưu lạc và phát triển nhận thức đặc trưng của cõi đó. (4) Danh và sắc: Bấy giờ khi thức vào trong cõi lưu lạc của nó nhờ sự gặp gỡ của tâm, năng lực (rLung) và tinh chất trắng và đỏ của cha mẹ, người ta thiết lập năm uẩn: “bốn danh” - thọ, tưởng, hành, thức – và “sắc”. Khi vào bụng mẹ, danh và sắc được thiết lập... (5) Những giác quan: Bấy giờ mắt, tai, mũi, lưỡi thân và tâm phát triển... (6) Xúc: Bấy giờ sự gặp gỡ của những đối tượng, những khả năng giác quan và sự tác dụng của tâm thức là tiếp xúc. (7) Thọ: Từ xúc khởi lên thọ. (8) Từ thọ khởi lên khao khát (ái) thọ ấy. Khao khát có ba thứ: khao khát cái thích (khao khát tham muốn), khao khát bỏ cái không thích (khao khát ghét bỏ) và khao khát trung tính... (9) Thủ: Từ khao khát khởi lên bám nắm... (10) Trở thành (hữu): Từ bám nắm khởi lên trở thành. Sự khởi lên năm uẩn, là sự trở thành... (11) Sanh: Từ trở thành khởi lên sanh... (12) Từ sanh khởi lên già, chết.

(b) Duyên Phụ Thuộc Bên Trong

Bởi vì trong mười hai mắt xích nhân duyên này, cái trước gây ra sự tiếp nối của những cái sau, nó được gọi là nhân duyên tương thuộc. Bởi vì những sự phát sanh tương thuộc này được phát triển nhờ sự gặp gỡ các bốn đại bên trong và thức, chúng được gọi là phát sanh từ những nhân duyên tương thuộc.

-------o0o-------

Trích: Phật Tâm - Một hợp những tuyển tập của Longchen Rabjam về Đại Toàn Thiện.

Việt dịch: Đương Đạo.

NXB Thiện Tri Thức năm 2011.

Ảnh nguồn internet.

Bài viết liên quan