NHỮNG DANH HIỆU CỦA THỰC TẠI TỐI HẬU - Dudjom Lingpa

NHỮNG DANH HIỆU CỦA THỰC TẠI TỐI HẬU

Dudjom Lingpa

-----o0o-----

Thừa kriyatantra là thừa làm vui thích bổn tôn bằng những thực hành khổ hạnh và thanh tịnh trong nghi lễ. Trong thừa upayatantra, thần lực (siddhi) được thành tựu nhờ tụng chú và nhập định. Thừa yogatantra là yoga của an định và huệ quán, của việc thấy sự ban phước của hư không căn bản, nó hoàn toàn vắng dứt mọi đặc tính, ở trong mạn đà la tối thượng của hư không căn bản bất động,...
NHỮNG DANH HIỆU CỦA THỰC TẠI TỐI HẬU - Dudjom Lingpa

Vào một dịp khác, tôi gặp nữ hoàng cao cả nhất của hư không căn bản Ekajati trong thị kiến, tôi hỏi như sau: “Thưa ngài, người bà duy nhất của tất cả sanh tử và niết bàn, đường lối tiếp cận tâm linh vui thích trong bầu trời bí mật của nữ hoàng cao cả nhất của hư không căn bản, trong tánh Không tối thượng của sanh tử và niết bàn được đặt tên là gì?”.

Ngài ban cho sự trả lời sau đây: “Hỡi con nhỏ của mẹ, ta đã cho con toàn bộ trao truyền dòng tâm truyền tâm như ban cho con một thân thể. Ta đã nuôi nấng dạy dỗ con với dòng truyền qua biểu tượng như cho con bú sữa mẹ. Ta đã nuôi lớn trí con, ban cho dòng khẩu truyền như lời khuyên chân thành. Hãy chỉ dạy những điều này cho những người phước đức cần được điều phục, họ có một mối liên kết với con bởi nghiệp và nguyện vọng. Tất cả những người có liên kết với con sẽ tìm thấy mục tiêu và ý nghĩa trong những điều này.

“Tên ta được đặt cho pháp oai nghiêm nhất trong mọi đường lối tiếp cận tâm linh. Tất cả những âm thanh nghe được đều là tên của ta, và như thế sự phô diễn trùm khắp bầu trời của người mẹ hưởng thụ hư không, cái bí mật vô thượng và rốt ráo, được gọi bằng nhiều từ ngữ, nhưng ở đây ta sẽ chỉ nói đến bảy tên.

“Bởi vì pháp này gồm hai loại bí mật vĩ đại, nên nó được đặt tên là ‘bí mật’; bởi vì nó che chở người ta khỏi những hậu quả đáng sợ của việc tạo ra ý niệm về một bản ngã và những ý niệm về một đặc tính xác định của bản ngã đó, nên nó được đặt tên là ‘mantra’ (thần chú). Nó được đặt tên là ‘kim cương’ (Vajra) bất hoại của thực tại tối hậu. Những phẩm tính của mọi con đường được chưng cất thành tinh túy của chúng nên nó được đặt tên là ‘yana’, thừa, hay ‘đường lối tiếp cận tâm linh’.

“Vì nó trụ như cách thế hiện hữu rốt ráo của mọi hiện tượng, nó được đặt tên là ‘nghĩa’; vì nó là cái chứng ngộ tối cao, nên nó được đặt tên là ‘thiêng liêng’. Nó là sự lọc bỏ mọi lỗi lầm và méo mó; nó là sự làm chủ trọn vẹn bên trong và trùm khắp mọi phẩm tính của những thân, tánh giác nguyên sơ, con đường và đích đến; và nó là tâm, trụ như sức sống độc nhất của ba kim cương, nền tảng cho sự sanh khởi trò phô diễn dị biệt của mọi vật trong sự thanh tịnh bình đẳng.

“Nó là sự toàn thiện (dzog-pa) của ba cách thế - sanh tử, niết bàn và con đường; nó là ‘đại’ (chen-po), bởi vì nó vận hành như nền tảng chung của mọi con đường tâm linh, gom tất cả chúng vào một mục tiêu duy nhất và hội tụ chúng về một điểm duy nhất.

“Bởi vì nó vượt khỏi mọi góc cạnh của ý niệm, nó là ‘bindu’, hay quả cầu (t’hig-le); bởi vì sanh tử và niết bàn là một vị trong Bồ đề tâm, nó là ‘duy nhất’.

“Bởi vì cõi giới của tánh giác vốn sẵn, Phật tánh, là trong suốt vi diệu, không có bất kỳ nhiễm ô nào, nó là ‘quang minh toàn triệt’; bởi vì nó được phú bẩm bảy đặc tính của kim cương bất hoại, nó được đặt tên là kim cương; và bởi vì nó trụ như tinh chất của tất cả hiện tượng sanh tử và niết bàn, nó được gọi là ‘tinh túy’.

“Bởi vì mọi hiện tượng của sanh tử và niết bàn được gồm trong sự bao trùm của Phật tánh và đều ở trong một trạng thái hoàn hảo trọn vẹn (viên dung), nó là sự ‘hoàn hảo (viên dung) trùm khắp của sanh tử và niết bàn’.

“Bởi vì nó không có mọi thứ sanh, chết, già, nó là ‘trẻ trung’; bởi vì không có sự xâm phạm nào có thể có được với sự hiện diện trùm khắp tự nhiên của nó, nó là ‘cái bình’; và bởi vì nó vốn là sự tập hợp hay quy tụ của mọi phẩm tính và phương diện tốt đẹp của tánh giác nguyên sơ, nó là ‘thân’”.

Nói xong, đức bà biến mất.

Tôi sẽ nói chi tiết hơn về lời giảng giải của đức bà bằng cách giải thích tất cả những phẩm tính tốt đẹp của con đường của chín thừa là hoàn thiện và trọn vẹn như thế nào.

Trong thừa Thanh Văn, người ta tri giác rằng mọi hiện tượng hình tướng biểu lộ như một cá thể - nghĩa là, tất cả những căn cứ cho quan niệm một cái ngã – đều không có tự tánh. Thừa Độc Giác Phật là sự chứng ngộ rằng những thực thể, cả bên ngoài và bên trong, chỉ là những hình tướng như huyễn của liên kết duyên sanh tương thuộc. Trong thừa Bồ tát, năng lực chứng ngộ tánh Không khởi lên như là bản tánh thiết yếu của lòng bi, bao trùm mọi phương diện của phương tiện thiện xảo và trí huệ siêu việt một cách tất nhiên không cố gắng.

Những phẩm tính tốt đẹp của ba đường lối tiếp cận này, đưa người ta ra khỏi nguồn gốc của khổ đau, là hoàn thiện và trọn vẹn theo cách mỗi thừa cao hơn bao gồm những thừa thấp hơn.

Thừa kriyatantra là thừa làm vui thích bổn tôn bằng những thực hành khổ hạnh và thanh tịnh trong nghi lễ. Trong thừa upayatantra, thần lực (siddhi) được thành tựu nhờ tụng chú và nhập định. Thừa yogatantra là yoga của an định và huệ quán, của việc thấy sự ban phước của hư không căn bản, nó hoàn toàn vắng dứt mọi đặc tính, ở trong mạn đà la tối thượng của hư không căn bản bất động, tức là kim cương giới.

Tất cả những phẩm tính và chức năng tốt đẹp của ba thừa này, chúng cầu gọi tánh giác (hay trí huệ) vốn sẵn bằng những thực hành khổ hạnh, vốn là toàn thiện và trọn vẹn trong hư không căn bản đơn nhất đồng khởi, bản tánh không thể diễn tả của tâm mình, tinh túy của thần lực (sidd hi).

Mọi nhân tố trong thừa mahayoga, hay tantra cha, là thanh tịnh từ vô thủy trong pháp thân tối thượng như là sự không thể tách biệt của hai cấp độ cao hơn của chân lý, hay thực tại tối hậu với bảy đặc tính.

Trong thừa anuyoga, đặt nền trên những bình giảng, mạn đà la của Bồ đề tâm phúc lạc tối thượng là đứa con sanh từ sự hợp nhất của hai mạn đà la - một vốn hiện hữu như nó là một cách nguyên sơ và không có thời gian và một là sự hiện diện tự nhiên của tánh giác nguyên sơ. Trong mạn đà la của Bồ đề tâm này, thế giới của mọi hiện tượng có thể có đều hoàn thiện và trọn vẹn trong trạng thái thanh tịnh và bình đẳng tuyệt đối.

Đại toàn thiện (dzogpa – chenpo) là bản tánh cố hữu của thực tại. Quang minh toàn triệt là hư không căn bản độc nhất không trung tâm hay chu vi, trong đó phương diện nền tảng của hiện thể chính là phương diện của những hiện tượng hình tướng của hiện diện tự nhiên quý báu, tất cả tự-khởi không phân chia, phần mảnh hay rơi vào những cực đoan, nên không có tách biệt, như không có sự phân biệt giữa vàng và sắc vàng. Nghĩa của những thừa trước đồng thời được bao gồm trong cái Đại Toàn Thiện này - nghĩa là trong pháp thân không dời chuyển biến đổi, tánh giác vốn sẵn tuyệt đối không có mọi giới hạn nào, nền tảng của hiện thể như là hư không căn bản, chính là thật nghĩa của Phật tánh.

Sự trình bày những thừa này một cách riêng biệt thì không gì khác hơn một giải thích để dẫn dắt những người cần được điều phục trong những giai đoạn tiệm tiến.

-----o0o-----

Trích: “Những Lối Vào Thực Tại Tối Hậu”

Nguyễn An Cư dịch -  NXB TTT – 2004

Ảnh: nguồn Internet

Bài viết liên quan