NHỮNG ĐIỂM THEN CHỐT TRONG THỰC HÀNH ĐẠI TOÀN THIỆN - SHECHEN GYALTSAB PEMA NAMGYAL - MỘT KẺ LANG THANG VÔ TƯ LỰ

NHỮNG ĐIỂM THEN CHỐT TRONG THỰC HÀNH ĐẠI TOÀN THIỆN

SHECHEN GYALTSAB PEMA NAMGYAL - MỘT KẺ LANG THANG VÔ TƯ LỰ

-------o0o-------

Khi tư tưởng quá khứ của bạn đã dứt và tư tưởng tương lai chưa sanh khởi và bạn không có tính toán thuộc khái niệm trong khoảnh khắc hiện tại, bấy giờ tánh giác tự nhiên và đích thực của bạn, sự hợp nhất của cái biết và trống không, mọc lên như trạng thái của tâm, giống như không gian – chính nó là đại toàn thiện (dzogchen) siêu vượt khái niệm, sự cắt đứt của thanh tịnh bổn...
NHỮNG ĐIỂM THEN CHỐT TRONG THỰC HÀNH ĐẠI TOÀN THIỆN - SHECHEN GYALTSAB PEMA NAMGYAL - MỘT KẺ LANG THANG VÔ TƯ LỰ

Kính lễ đức Phật thứ hai, Samyepa Kunkhyen Ngagi Wangpo (Longchenpa).

Tôi sẽ giải thích ngắn gọn ở đây những điểm then chốt của thực hành theo Đại Toàn Thiện.

Trước hết, trên một chỗ ngồi thoải mái, hãy có tư thế bảy điểm Vairochana trong một cách thư giãn và thoải mái. Bởi vì đôi mắt là cửa cho sự biểu lộ của trí huệ, hãy nhìn thẳng vào bầu trời với đôi mắt mở rộng và không có điểm trọng tâm. Về phần điểm then chốt của lời (ngữ), hãy để hơi thở trôi chảy tự nhiên, không qua mũi mà qua miệng rất êm nhẹ. Có một lý do cho mỗi cái trong ba điểm này, thế nên chớ xem thường chúng hay nghĩ chúng không quan trọng.

Sau đó, hãy trau dồi sự từ bỏ, chán ngán mệt mỏi (đối với cuộc sống), lòng bi, và bồ đề tâm. Sau đó, hãy quán tưởng bổn sư của bạn trên đỉnh đầu trong hình tướng và y phục bình thường của ngài. Hãy cầu khẩn ngài, không chỉ bằng lời tẻ nhạt, mà với sự sùng mộ đầy nước mắt, để cho sự chứng ngộ con đường sâu thẳm có thể nhanh chóng hiện lên trong bạn. Để sự thấu hiểu Đại Toàn Thiện xảy ra trong tâm bạn, bạn phải nhận sự trao truyền ban phước từ tâm của một vị thầy có dòng phái. Sự trao truyền này tùy thuộc vào sự sùng mộ của đệ tử, thế nên nó là quan trọng nhất. Không bị lôi cuốn quá nhiều vào xướng tụng hay thực hành bó buộc, hãy nhất tâm khẩn cầu ngài. Đây là điều thiết yếu.

Sau đó, theo những điểm then chốt của quán tưởng để nhận bốn quán đảnh, hãy hòa trộn tâm guru với tâm bạn và duy trì tinh túy bẩm sinh của đại lạc, cái biết trống không thoát khỏi trụ chấp.

Ở đây, thiền định không có nghĩa là trau dồi trạng thái trống không, lãnh đạm, vô tâm của nền tảng – tất cả (a lại da thức). Cũng không phải là sự trau dồi trạng thái ý thức và bình lặng của thức nền tảng tất cả. Tương tự, thiền định không có nghĩa là trau dồi trạng thái trống trơn của một kinh nghiệm không khái niệm (vô niệm) hay những tư tưởng lốm đốm xuất hiện như những đối tượng.

Vậy thì, thiền định là gì? Khi tư tưởng quá khứ của bạn đã dứt và tư tưởng tương lai chưa sanh khởi và bạn không có tính toán thuộc khái niệm trong khoảnh khắc hiện tại, bấy giờ tánh giác tự nhiên và đích thực của bạn, sự hợp nhất của cái biết và trống không, mọc lên như trạng thái của tâm, giống như không gian – chính nó là đại toàn thiện (dzogchen) siêu vượt khái niệm, sự cắt đứt của thanh tịnh bổn nguyên, sự tiêu tan của những hiện tượng, trần trụi và rộng mở.

Cái này chính xác là cái bạn cần nhận biết. Duy trì thực hành nghĩa là chỉ đơn giãn nghỉ ngơi trong bản thể tự nhiên này sau khi nhận biết. Trong bất kỳ bối cảnh nào, hoặc cái thấy, thiền định, hay hạnh, đây chính là cái cần được phát hiện trong trạng thái trần trụi của nó. Trừ phi bạn kinh nghiệm và thấu hiểu cái đó, một giáo lý thì sẽ dạy bạn thoát khỏi sanh, trụ, và diệt, trong khi cái khác sẽ nói, “Nó là như thế, như thế!” Với những ý tưởng này trong tâm, bạn chỉ đặt tên cái không có tên. Trong đầm lầy của những giả định trí thức, bạn sẽ không bao giờ tìm thấy cơ may chứng ngộ.

Pháp thân là tánh giác trống không và trần trụi siêu vượt những khái niệm, tách lìa khỏi hình ảnh tâm thức đơn thuần, không thể được thiết lập như có hiện hữu cụ thể nhờ những lời mô tả hay nhờ trí năng phân tích. Nhưng, khi những ban phước của vị thầy trùng hợp, tương ưng với năng lực thực hành thiền định của chính bạn, bạn sẽ cắt đứt những quan niệm sai lầm, giống như một trẻ nhỏ thức tỉnh với khả năng thông minh. Khi điều này xảy ra, cốt yếu là không bỏ quên sự khám phá của bạn mà trau dồi nó liên tục với sự chuyên cần.

Với một người mới học, nếu bạn quá chểnh mảng, thì có nguy cơ trượt vào mê lầm không ngừng, thế nên bạn phải chánh niệm thường trực.

Dù tĩnh lặng, tư tưởng xảy ra, hay ghi nhận chúng, cốt yếu của thực hành là nhìn trực tiếp vào tánh giác (rigpa) của người quan sát.

Khi thiền định theo cách này, dấu hiệu biểu lộ của tánh giác là khi bạn có vẻ có nhiều hoạt động, lay động của tư tưởng hay những xúc động quấy nhiễu hơn trước. Cũng xuất hiện vô số những biến thể của ba kinh nghiệm lạc, sáng tỏ và vô niệm. Nhưng chớ hy vọng hay sợ hãi chúng. Chớ cố gắng nhận lấy hay bác bỏ chúng, hay bám chấp vào chúng theo bất cứ cách nào. Đúng hơn, hãy thực hành nhìn thẳng vào tánh giác đang kinh nghiệm chúng. Trong cách này chúng trở thành bạn bè của mình. Nếu bạn bám chấp vào những kinh nghiệm ấy, bạn sẽ chỉ vướng vào trụ chấp.

Nếu tâm bạn hôn trầm nặng đục, và sự sáng tỏ của tánh giác không biểu lộ, bạn có thể xua tan trạng thái ấy bằng cách quán tưởng chữ AH hay một khối cầu ánh sáng ở trung tâm trái tim và phóng chiếu nó ra ngoài qua đỉnh đầu. Tạm nghỉ sau hơi thở ra, hãy tưởng tượng AH hay khối cầu trong không khí khoảng chiều dài một mũi tên trên đầu.

Nếu bị xáo động, bạn có thể vững chắc trở lại bằng cách thư giãn sâu thân và tâm, hạ thấp cái nhìn, và tưởng tượng một khối cầu nhỏ ở đầu mũi.

Thỉnh thoảng, khi bầu trời trong sáng, không mây, bạn có thể ngồi, lưng quay lại phía mặt trời, hướng mắt đến trung tâm không gian, và thở rất nhẹ, nghỉ ngắn sau mỗi hơi thở ra. Làm như thế, trong một khoảnh khắc, pháp thân rỗng rang và trần trụi của tánh giác và tánh Không sẽ xuất hiện từ bên trong bạn. Sự thấu hiểu ba cái của thực tại qua việc nhìn bầu trời này là giáo huấn sâu xa nhất.

Vào những lúc khác, bạn giữ thân trong bảy điểm, thở tự nhiên, và giữ tâm không có tư tưởng. Bấy giờ nằm xuống, duỗi cả tay chân, để mắt nhìn vào bầu trời. Thốt lên mạnh mẽ HA! ba lần, thở ra. Rồi để tâm bạn trong trạng thái tự nhiên của nó. Làm như vậy, một thấu hiểu pháp tánh vô niệm sẽ xảy ra.

Lại nữa, chớ trụ vào phẩm tính trống không mà hãy ở trong trạng thái không bám chấp của nhận thức vốn tỏ biết. Bằng cách làm điều này một thấu hiểu tri giác không trụ chấp và không có chất thể sẽ xảy ra.

Lại lần nữa, hãy hướng sự chú ý của bạn vào hoạt động của tư tưởng khởi từ sự sáng tỏ của tánh giác và bạn sẽ thấu hiểu rằng nó giống như một làn sóng tan vào nước, thoát khỏi bất kỳ nương dựa hay trụ chấp nào.

Những giáo huấn này là những phương pháp sâu xa có từ kinh nghiệm cá nhân trực tiếp. Theo cách này, bạn khởi sanh sự xác tín trong chính bạn.

Tóm tắt, thiền định tánh giác vốn sẵn mà tôi đã đề cập ở trước – sự thấu hiểu, chứng ngộ tánh thanh tịnh bổn nguyên trong đó mọi hiện tượng đều cạn kiệt, tan biến; sự siêu vượt khỏi tốt và xấu, lỗi lầm và đạo đức; sự vắng mặt của đạt được và tịnh hóa, biến đổi và suy thoái; trí huệ vượt khỏi những khái niệm nhị nguyên; điểm cuối cùng của chứng ngộ, dù nó là trung đạo, đại ấn hay đại toàn thiện – thì bản thân nó hiện diện trong mọi thời gian, và đó chính là cái bạn cần nhận biết.

Khi làm như vậy, chớ tập trung với nỗ lực chủ tâm và chớ bị phân tán bởi xao lãng. Hãy hộ trì yoga của tánh tự nhiên không tạo tác giống như giòng chảy bền vững của một con sông. Đây là tinh túy của thực hành.

Bất cứ cái gì xãy ra ở điểm này, hoặc sáu loại thần thông, những tư tưởng liên hệ đến năm độc, hay những dao động trong những kinh nghiệm tạm thời, tất cả biểu lộ như là một phô diễn của tánh giác, bồ đề tâm. Chúng đều bình đẳng trong sự xuất hiện, chúng đồng là trống không, chúng là thật và cũng đều là giả. Tất cả chúng không gì khác hơn là sự phô diễn huyễn thuật của tánh giác, thế nên chớ bị lôi cuốn vào trong việc phủ nhận hay chấp nhận, lấy hay bỏ, bám hay trụ vào chúng như cái gì phải xa lìa hay như một phương thuốc đối trị. Đúng ra, hãy thư giãn trống trải và không trụ chấp trong trạng thái tươi trẻ của tánh giác của cái đang kinh nghiệm. Trong cách này, cốt yếu là tu hành sức mạnh chứng ngộ bằng cách tự nhiên giải thoát bất kỳ cái gì sanh khởi.

Ở đây, từ shamatha để nói đến phương diện tĩnh lặng, và vipashyana đến phương diện của thấu hiểu trực tiếp tánh giác rộng mở và tánh Không. Chúng có những tên khác nhau nhưng thật ra không thể phân chia.

Bằng cách thấu hiểu rằng tinh túy của tánh giác là trống không, bạn thoát khỏi cực đoan thường kiến, và bằng cách thấy rằng bản tánh là tỏ biết, bạn thoát khỏi cực đoan đoạn kiến. Bằng cách không có hy vọng trau dồi những kinh nghiệm lạc, sáng tỏ, và vô niệm, bạn thoát khỏi những trạng thái của ba cõi. Bằng cách tiêu hủy sự chấp trụ vào phương thuốc đối trị, không có nhiễm ô hay lầm lẫn nào ở lại trong bản tánh bạn.

Chớ hy vọng đạt giác ngộ ở tương lai trong đầm lầy của những giả định do tâm làm ra; thay vào đó hãy lấy làm con đường của bạn là ba thân vốn hiện diện ngay lúc này trong bạn. Chính cái đó là phẩm tính đặc biệt của đại toàn thiện. Đối với hành giả chứng ngộ điều này, mặt trời hạnh phúc sẽ chiếu sáng từ bên trong, bất kể anh ấy hay cô ấy ở đâu.

Bất kể cái gì bạn kinh nghiệm, hoặc đau đớn nơi thân, khổ sở nơi tâm, một xúc cảm “thật” quấy nhiễu, bám chấp và trụ, lấy hay bỏ, hãy đồng hóa tiêu dung nó và cầu khẩn vị thầy của bạn và nhận những ban phước của ngài. Hãy khảo sát tỉ mỉ và tìm ra cái tâm chấp nhận hay bác bỏ. Từ đâu nó sanh, nơi đâu nó ở, và nó đi đâu?

Làm điều này bạn sẽ tìm thấy không có bất cứ cái gì cả và nó không ở đâu cả. Như vậy, bạn không thể tránh khỏi kinh nghiệm một tỉnh biết vượt khỏi những ý niệm người tri giác và cái được tri giác, và không thể diễn tả bằng lời. Đây là pháp thân – tánh Không tỏ biết và trần trụi. Khi kinh nghiệm này xảy ra, hãy duy trì chính xác trạng thái của pháp thân này và mọi chướng ngại và lạc lối sẽ tự nhiên được giải thoát.

Sùng tín vị thầy là vua của mọi thực hành nâng cấp, thế nên hãy từ bỏ việc xem ngài như một người bình thường. Cốt yếu là chớ bao giờ tự tách lìa khỏi lòng sùng tín xem ngài là một vị Phật bằng xương bằng thịt.

Hơn nữa, nếu bạn luân phiên giữa thiền định về vô thường, lòng bi, giai đoạn phát triển và giai đoạn hoàn thành với và không có những thuộc tính, mỗi thực hành sẽ nâng cấp cho cái khác. Điều này sẽ hiệu quả nhất.

Vào lúc chấm dứt những thời công phu, chớ bao giờ quên hồi hướng.

Trong những khoảng giữa chớ bao giờ quên sự thực hành nhìn mọi hiện tượng như là những xuất hiện huyễn thuật.

Vào ban đêm, hãy thực hành yoga giấc ngủ. Khi sắp rơi vào giấc ngủ, hãy cầu khẩn để bạn có thể kinh nghiệm trạng thái giấc ngủ là quang minh. Sau đó, hãy hòa trộn vị thầy với tâm bạn, duy trì trạng thái tươi trẻ của tánh giác. Khi làm như vậy, hãy đi vào giấc ngủ mà không bị gián đoạn bởi những tư tưởng khác.

Có những điểm khác nữa cần hiểu. Trừ phi bạn xác quyết cái thấy, bạn sẽ không thể hủy hoại những trói buộc vào ý niệm một người tri giác và một cái được tri giác, nghĩ chúng là thật. Trong trạng thái thiền định, cốt yếu là xác quyết rằng mọi hiện tượng là không hiện hữu, tỏa khắp, hiện diện tự phát, và nhất thể. Đây là bốn giới nguyện (samaya) nổi tiếng của thực hành đại toàn thiện.

Trừ phi bạn duy trì sự liên tục trong thiền định, bạn sẽ không đến được điểm trọng yếu. Chỉ cho rằng cái thấy là thế này thế này thì không đủ. Cốt yếu là duy trì, giữ gìn thiền định liên tục với sự chuyên cần.

Trừ phi bạn phân biệt giữa hạnh tốt và hạnh xấu, có nguy cơ là bạn sẽ lạc vào đoạn kiến hoàn toàn, nghĩ rằng cả tốt và xấu đểu rỗng không. Điểm then chốt là biến đổi bất kỳ việc gì bạn làm trong hậu thiền định thành một hành động đạo đức bằng cách duy trì cảm nhận rằng mọi sự giống như một xuất hiện huyễn thuật và có đức tin vững chắc rằng luật nhân quả là không sai chạy.

Nếu bạn tách lìa phương tiện và trí huệ, bạn sẽ luôn luôn ở trong trói buộc. Cốt yếu là đi trên đại lộ làm vui thú các bậc chiến thắng: sự hợp nhất của tánh Không và đại bi và của hai tích tập công đức và trí huệ.

Đấy là những điểm then chốt cực kỳ quan trọng, thế nên hãy giữ chúng trong tâm theo cách này:

Trừ phi cảm nhận vô thường và mệt mỏi sanh tử sanh khởi trong tâm,

Công việc làm xuất hiện sự thực hành trrong đời này

Sẽ không bao giờ có một cơ may để hoàn thành thánh Pháp.

Nguyện từ bỏ đích thực hiện lên trong tôi.

Trừ phi tôi tu hành lòng bi và bồ đề tâm tuyệt hảo,

Trong bóng tối của bám chấp ích kỷ,

Sẽ không bao giờ có một cơ may soi sáng con đường Đại thừa tuyệt hảo.

Nguyện tôi tu hành trong bồ đề tâm chân thực và trổi vượt.

Tôi cam kết những việc có vẻ làm lợi lạc cho những người khác,

Dù tôi chưa đạt đến trạng thái của một người cao cả.

Những hành động ấy, thật ra, không giúp cho người khác và khiến tôi tự trói buộc,

Không làm ngu muội mình bằng những xao lãng và hối hả,

Nguyện tôi thực hành chuyên cần trong những nơi tách biệt.

Phương tiện và trí huệ tách lìa nhau thì giống như một người gảy chân

Thiếu năng lực để du hành những con đường và những địa đến toàn giác.

Khi hợp nhất tánh Không và lòng bi, khai triển và hoàn thành, và hai tích tập,

Nguyện tôi đi vào trên con đường không lỗi.

Không nhận những ban phước của một vị thầy có dòng truyền,

Tôi sẽ không chứng ngộ trạng thái tự nhiên bằng nỗ lực thực hành.

Qua một trùng hợp tốt lành của sùng tín hoàn hảo,

Nguyện tôi có được quán đảnh tối cao trao truyền dòng chứng ngộ.

Đại toàn thiện vượt khỏi những khái niệm, tánh giác tự hữu quang minh,

Là sự hiện diện tự phát của các thân và các trí huệ từ nguyên thủy.

Qua giáo huấn an trụ tự do trong thể trạng bẩm sinh vốn sẵn,

Nguyện tôi đạt đến sự vững chắc của cấp độ cạn kiệt, tiêu tan.

Khi thời gian đến để đem lại lợi lạc cho chúng sanh,

Nguyện tôi có áo giáp của sự không bao giờ mệt mỏi giúp đỡ những người khác.

Nguyện tôi một mình giải thoát cho vô biên các bà mẹ của tôi

Khỏi dòng sông của hiện hữu sanh tử.

Upadesha này để làm lợi lạc cho những người mới bắt đầu, do thiền giả Yanpa Lodey (Kẻ lang thang Vô tư lự) cho một người bạn có tên Kamali.

Hoàn thành cho hiện hữu – thời gian! ITHI!

-------o0o-------

Tác giả: Shechen Gyaltsab Pema Namgyal (1871 – 1926)

Erik Pema Kunsang dịch tiếng Anh,

Ban biên tập Tại đây và Bây giờ dịch Việt.

Ảnh: nguồn internet.

Bài viết liên quan