THỌ NHẬN BỐN QUÁN ĐẢNH - DILGO KHYENTSE – VIÊN NGỌC NHƯ Ý

THỌ NHẬN BỐN QUÁN ĐẢNH

DILGO KHYENTSE – VIÊN NGỌC NHƯ Ý

-----o0o-----

Giờ đây, chúng ta đã học cách làm thế nào quán tưởng chính mình là Vajrayogini với Guru Rinpoche trên đầu, làm thế nào cầu thỉnh các bổn tôn trí huệ đến từ cõi Phật, và làm thế nào các bổn tôn hòa nhập vào chúng ta. Chúng ta đã học về sự tích tập công đức nhờ việc cúng dường Lời Cầu nguyện Bảy-Nhánh và nhờ các phương tiện khác nhau để phát khởi đức tin và lòng sùng mộ trong...
THỌ NHẬN BỐN QUÁN ĐẢNH - DILGO KHYENTSE – VIÊN NGỌC NHƯ Ý

Giờ đây, chúng ta đã học cách làm thế nào quán tưởng chính mình là Vajrayogini với Guru Rinpoche trên đầu, làm thế nào cầu thỉnh các bổn tôn trí huệ đến từ cõi Phật, và làm thế nào các bổn tôn hòa nhập vào chúng ta. Chúng ta đã học về sự tích tập công đức nhờ việc cúng dường Lời Cầu nguyện Bảy-Nhánh và nhờ các phương tiện khác nhau để phát khởi đức tin và lòng sùng mộ trong việc trì tụng thần chú Kim Cương Đạo sư của chúng ta. Bây giờ, để kết thúc, chúng ta phải học tập làm cách nào thọ lãnh bốn quán đảnh từ Guru Rinpoche và đoàn tùy tùng của ngài gồm hội chúng các hiện thể vĩ đại.

Từ Sanskrit mà chúng ta dịch từ “empowerment” của Anh ngữ là abhiseka, có hai nghĩa là xé rách lẫn làm đầy. Abhiseka xé rách hay giật tung các tấm màn vô minh và làm tràn ngập chúng ta với những sự ban phước thuộc thân, ngữ và tâm của đạo sư, Chúng ta gọi việc này là một quán đảnh vì qua nó chúng ta trở nên được cho phép trau dồi các thực hành tâm linh đặc biệt mà cuối cùng sẽ nở rộ thành sự chứng ngộ. Vì thế, quán đảnh vừa là một sự cho phép vừa là một sự ban phước. Thực hành mà không thọ nhận một lễ quán đảnh thì giống như cố gắng vắt cát để lấy dầu. Trước tiên, chúng ta phải thọ lãnh sự quán đảnh từ một vị thầy có phẩm chất, và sau đó ta có thể làm mới nó lại nhiều lần qua sự thực hành pháp guru yoga.

Để nhận lãnh bốn quán đảnh, chúng ta phải hướng tâm mình về Guru Rinpoche với một lòng sùng mộ mãnh liệt và khát khao. Đáp ứng lại, Guru Rinpoche sẽ hướng tâm trí huệ của ngài về chúng ta với lòng bi mẫn và từ ái vĩ đại. Trong vấn đề này chúng ta có thể bao gồm lời cầu nguyện tới tất cả chư Phật và các đạo sư của dòng Long chen Nyingthig, nó bắt đầu bằng các từ “Emaho! Trong cõi Phật vô hạn và trùm khắp...”, và chúng ta có thể tìm thấy lời cầu nguyện đó trong bản dịch mở rộng hơn về pháp guru yoga này ngay trong chính ngöndro của dòng Longchen Nying- thig. Vào lúc cuối của sự cầu nguyện này, tất cả các yidam, daka, dakini, các hiện thể vĩ đại, và các đấng bảo hộ tạo thành đoàn tùy tùng của ngài, tất cả các ngài tan thành ánh sáng và tan lẫn vào Guru Rinpoche. Bây giờ, còn rạng ngời và rực rỡ hơn trước, sáng chói với những sự ban phước, Guru Rinpoche tồn tại như một sự hợp nhất tối cao của tất cả chư Phật. Chính từ ngài mà giờ đây chúng ta thọ lãnh các sự quán đảnh.

Giữa cặp lông mày của Guru Rinpoche, ở chính giữa trán ngài, chúng ta quán tưởng một chữ OM trắng, giống như một thứ pha lê chiếu ra những tia sáng trắng hết sức mạnh mẽ, sáng ngời. Khi quán tưởng chính chúng ta là Vajrayogini, các tia sáng này bị hấp thu vào một chữ OM trắng tương ứng trên trán của chính chúng ta, và những ánh sáng này lan tràn khắp toàn bộ thân thể ta, chảy qua mọi mạch máu hay kinh mạch vị tế, tịnh hóa mọi ác hạnh của thân.

Có ba kinh mạch chính: uma, hay kinh mạch trung ương; roma, hay kinh mạch phải; và kyang- ma, hay kinh mạch trái. Các kinh mạch này chạy từ dưới rốn tới đỉnh đầu, qua năm cakra, hay “bánh xe” (luân xa). Ở trán là luân xa đại lạc; ở cổ họng là luân xa hoan hỉ; ở tim là luân xa các Pháp hay các hiện tượng; ở rốn là luân xa của sự hình thành; và ở trung tâm bí mật là luân xa duy trì sự hỉ lạc. Từ các luân xa này nhiều kinh mạch nhỏ hơn tỏa ra chung quanh như các cây căm của bánh xe. Trong tình trạng che chướng và mê lầm hiện hành của chúng ta, các năng lực nghiệp (Tiếng Tây Tạng là lung, “các gió”) – là cái trói chặt chúng ta vào vòng sinh tử – chạy khắp các kinh mạch khác nhau. Để chúng ta thoát khỏi sự mê lầm (vô minh), các năng lực này phải được tịnh hóa và chuyển hóa thành năng lực trí huệ.

Khi chúng ta nhận lãnh các sự ban phước, chúng tuôn trào như các tia sáng từ giữa trán của Guru Rinpoche tới riêng ta, thì tất cả các bất tịnh trong các kinh mạch này được tẩy sạch. Đồng thời, chúng ta nhận lãnh các sự ban phước từ thân kim cương của Guru Rinpoche.

Cái đầu tiên trong bốn quán đảnh hay nhập môn là nhập môn bình chứa, là loại nhập môn chúng ta thường nhận lãnh từ vị thầy khi quán tưởng bổn tôn chính yếu và toàn thể mạn đà la như đang hiện diện trong bình chứa được dùng suốt trong lễ quán đảnh. Rồi mạn đà la tan ra thành chất cam lồ, nó làm đầy tràn bình chứa, và chúng ta nhận lãnh các sự ban phước từ bình chứa này. Ở đây, bằng sự hấp thu các tia sáng vào trán chúng ta, ta làm mới lại nhập môn đầu tiên này. Nhờ nó, chúng ta được cho phép thực hiện các thiền định, các sādhana, và các sự quán tưởng khác nhau của giai đoạn phát triển, ví dụ những thực hành về các bổn tôn hòa bình và phẫn nộ. Qua sự ban phước này, hạt giống để trở thành một vidyadhara hoàn toàn trưởng thành được gieo trồng trong ta. Với từ vidyadhara, chúng ta muốn nói tới bậc mà tâm đã chín mùi thành trí huệ. Mặc dù thân các ngài tồn tại như vỏ bao được tạo nên bởi ngũ uẩn, nhưng nó sẵn sàng tan biến thành thân trí huệ vào lúc chết. Từ tổng quan về năm con đường, nhập môn này tương ứng với các con đường của sự tích tập và tiếp hợp. Sự nối kết tốt lành tất yếu để thành tựu Hóa thân, là thân hiển lộ của Phật, được thiết lập trong chúng ta với nhập môn đầu tiên này.

Kế tiếp, từ giữa cổ họng của Guru Rinpoche, chúng ta quán tưởng một chữ AH màu đỏ. Các tia sáng chói lọi tuôn ra từ đây, như thể từ một viên rubi (hồng ngọc) sáng rực. Các tia sáng này được hấp thu vào giữa cổ họng của riêng ta, ở đó chúng ta quán tưởng một chữ AH tương ứng. Ánh sáng đỏ này đổ vào thân thể chúng ta, lan tỏa ra và tẩy sạch tất cả kinh mạch của ta, như thế tịnh hóa tất cả các ác hạnh đã mắc phạm qua ngữ, như nói dối, phỉ báng, nói tầm phào, và nói ác. Nó cũng tịnh hóa các năng lực nghiệp trên đó các ác hành về ngữ cưỡi lên. Đồng thời chúng ta thọ nhận sự ban phước từ ngữ kim cương của Guru Rinpoche, cũng như nhập môn thứ hai hay nhập môn bí mật, thường được ban cho bởi vị thầy từ chiếc ly bằng đầu lâu đựng đầy amrita, chất cam lồ bất tử. Với nghi lễ này chúng ta được cho phép thực hiện các sự trì tụng khác nhau, và chúng ta nhận lãnh hạt giống để đạt tới cấp độ của bậc vidyadhara có quyền lực đối với đời sống. Đây là cấp độ nơi đó cả tâm lẫn thân được chuyển hóa thành trí huệ và mối nối kết tốt đẹp khiến cho chúng ta thành tựu cấp độ Báo Thân được thiết lập trong con người chúng ta.

Sau đó, giữa trái tim Guru Rinpoche, chúng ta quán tưởng một chữ HUNG màu xanh như màu xanh da trời trong trẻo của bầu trời mùa thu, nó phát ra ánh sáng chói lọi và chúng được hấp thu vào chữ HUNG ở giữa trái tim của riêng ta. Một lần nữa, ánh sáng này lan tỏa khắp thân ta và chảy qua mọi kinh mạch, tịnh hóa ba ác hạnh của tâm - tham muốn, hiểm ác, và tà kiến. Nó cũng tịnh hóa các tinh chất trắng và đỏ, hay thigle, chúng tạo nên sự nâng đỡ của tâm. Vào lúc này chúng ta thọ lãnh các ban phước từ tâm kim cương của Guru Rinpoche, cũng như nhập môn thứ ba hay nhập môn trí huệ. Chúng ta nhận sự nhập môn trí huệ này trong khi quán tưởng vô số các tia sáng, phát ra từ thân tướng của tất cả các bổn tôn của mạn đà la. Chúng được hấp thu vào chúng như thường lệ. Điều này khiến cho chúng ta chứng ngộ trí huệ đại lạc, thành tựu cấp độ của Pháp Thân, và trở thành một vidyādhara mahamudra (vidyadhara Đại Ấn). Khi Guru Rinpoche ban lễ quán đảnh Vajrakilaya cho các đệ tử của ngài, ngài mang hình tướng của Vajrakilaya ở trung tâm mạn đà la của ngài. Năng lực như thế cho sự phô diễn vô hạn các hình thức trí huệ là quả hay đặc tính của cấp độ vidyadhara này, được gọi là mahamudra vì maha nghĩa là “lớn” và mudra nghĩa là “phô diễn”.

Bây giờ một chữ HUNG màu xanh thứ hai phát khởi lên từ chữ HUNG ở giữa tim Guru Rinpoche và, giống như một ngôi sao băng xuyên vào giữa trái tim ta để hòa tan không thể chia cắt với tâm chúng ta và làm tràn ngập toàn thể thân chúng ta bằng ánh sáng. Điều này hoàn toàn tịnh hóa các ô nhiễm vi tế của thân ngữ, và tâm, chúng ngăn che sự nhận thức và nền tảng mê lầm của chính các ô nhiễm, là kunshi. Được gọi là alayavijnana (a lại da thức) trong tiếng Sanskrit, đây thực sự là nhà kho chứa mọi khuynh hướng thông thường, cũng như nghiệp tốt và xấu. Đối với hai che chướng, sự nhập môn này xé toang loại che chướng ngăn trở cái giác hay sự hiểu biết tối hậu. Màn che này là kết quả của sự tạo ra quan niệm về một chủ thể, hành động, và đối sự tượng, tiếng Tây Tạng gọi là ba quan niệm bao vây. Qua nhập môn này chúng ta cũng thọ nhận sự ban phước của thân, ngữ và tâm của Guru Rinpoche được làm thành hợp nhất.

Nhập môn thứ tư này hay nhập môn ngôn từ là sự dẫn nhập vào trạng thái tự nhiên của mọi hiện tượng; qua đó chúng ta trở thành một pháp khí đúng đắn đối với sự thực hành Dzogchen, Đại Viên Mãn. Hạt giống cũng được gieo trồng trong chúng ta cho sự đạt tới cấp độ của vidyadhara thành tựu tự nhiên, nó cho phép sự thành tựu tự nhiên năm kaya, là cấp độ của chính Guru Rinpoche. Đây là Phật tánh tối hậu, sự không thể phân chia của ba thân (kāya), hay svabhāvikakaya, thân tự tánh chân thực. Đến đây thân, ngữ và tâm chúng ta trở nên không thể phân cách và đồng một vị với thân, ngữ, và tâm của Guru Rinpoche. Rồi, an trụ trong sự tịch tĩnh, trong trạng thái nhất vị này, chúng ta tiếp tục sự trì tụng thần chú. Trạng thái này được gọi là “cái thấy khuôn mặt đích thực của đạo sự tuyệt đối”. Như vậy, nếu chúng ta chứng ngộ được tâm ta chính là Pháp Thân thì điều đó đồng với việc được nhận lãnh sự quán đảnh của tất cả chư Phật của quá khứ, hiện tại, và tương lai.

Có năm cấp độ có thể được thừa nhận trong sự thực hành guru yoga. Cấp độ bên ngoài, để tích tập công đức, bao gồm sự quán tưởng đạo sư và đoàn tùy tùng của ngài trong không gian trước mặt hành giả, sự quy y, phát khởi Bồ đề tâm, cúng dường bảy nhánh, và v,v..., trong khi giữ trong tâm rằng các vị bổn tôn chỉ đơn giản là sự hiển lộ của tâm trí huệ của đạo sư. Cấp độ bên trong, để tịnh hóa những tri giác của hành giả, bao hàm sự quán tưởng đạo sư ở trên đầu mình và thọ nhận các sự ban phước của ngài. Cấp độ bí mật, để cho trí huệ đột nhiên xuất hiện nơi hành giả, bao hàm sự quán tưởng đạo sư nơi tim mình. Cấp độ bí mật nhất, trong đó người ta nhận biết bổn tôn là chính mình, bao hàm sự quán tưởng chính mình như một bổn tôn, chứng ngộ rằng thân, ngữ, và tâm mình không hề phân cách với thân, ngữ và tâm của đạo sư, và khởi hiện trong hình tướng của bổn tôn. Ở cấp độ tuyệt đối, khi đã hòa nhập tâm mình với tâm đạo sư, người ta chứng ngộ bản tánh tối hậu của đạo sư, pháp giới tánh Không tuyệt đối trống không các ý niệm và điều kiện, an trụ không chút nỗ lực trong trí huệ chói sáng không thể nghĩ bàn này.

-------***-------

Trích: "Viên Ngọc Như Ý – Sự Thực Hành Guru Yoga Theo Truyền Thống Longchen Nyingthig"

Tác giả: Dilgo Khyentse

Liên Hoa dịch

Nhà Xuất Bản Thiện Tri Thức, 2004

Bài viết liên quan