TỰ TÁNH CỦA LỤC TỔ THEO NỀN TẢNG, CON ĐƯỜNG, QUẢ CỦA ĐẠI TOÀN THIỆN VÀ ĐẠI ẤN - NGUYỄN THẾ ĐĂNG

TỰ TÁNH CỦA LỤC TỔ THEO NỀN TẢNG, CON ĐƯỜNG, QUẢ CỦA ĐẠI TOÀN THIỆN VÀ ĐẠI ẤN

NGUYỄN THẾ ĐĂNG

-------o0o-------

Chúng sanh, phiền não, pháp môn, Phật đạo đều ở trong tự tâm, tự tánh, như là nền tảng. Và muốn độ, đoạn, học, thành thì phải lấy chính nền tảng tự tâm, tự tánh để làm việc đó.
TỰ TÁNH CỦA LỤC TỔ THEO NỀN TẢNG, CON ĐƯỜNG, QUẢ CỦA ĐẠI TOÀN THIỆN VÀ ĐẠI ẤN - NGUYỄN THẾ ĐĂNG

 

Tự tánh (svabhava) là một từ Sanskrit, có nhiều trong các Kinh, Luận, nhất là của Tông Duy thức. Chẳng hạn ba tự tánh là Biến kế sở chấp tự tánh, Y tha khởi tự tánh và Viên thành thật tự tánh.

Tự tánh là bản tánh tồn tại bởi chính nó, không biến đổi, không bị cái gì khác làm cho hư hỏng, biến chất. Với Lục Tổ, ngài không dùng chữ Tự tánh cho cái gì khác ngoài bản tâm của con người. Tự tánh là ‘bản tánh của tâm’ (nature of mind).

Sau đây sẽ giải thích Tự tánh theo Nền tảng, Con đường và Quả của Đại Ấn và Đại Toàn Thiện của Ấn - Tạng, để thấy đạo Phật chỉ là “một vị duy nhất” cho tất cả các truyền thống.

Với hành giả, Nền tảng cần phải thấy, đây là cái Thấy. Cái Thấy này cần được duy trì và triển khai bằng Thiền định và Hạnh, để khai mở hoàn toàn. Cái Thấy viên mãn thì đây là Quả, mà kinh Pháp Hoa nói là cái thấy biết của Phật (Tri kiến Phật).

 

1/ Nền tảng.

Toàn bộ Pháp Bảo Đàn Kinh luôn luôn giảng nói về Tự Tánh. Đoạn đầu tiên nói đến tự tánh khi Ngũ Tổ dạy cho sư Thần Tú:

Ngũ Tổ nói: Ông làm kệ ấy chưa thấy bản tánh, chỉ đến ngoài cửa, chưa vào trong nhà. Như chỗ thấy hiểu ấy mà cầu Vô thượng Giác ngộ thì rốt ráo không thể được.

Vô thượng Giác ngộ là cần ngay dưới lời nói mà biết bản tâm mình, thấy bản tánh mình, vốn chẳng sanh diệt, trong tất cả mọi thời đều niệm niệm tự thấy. Muôn pháp không trệ ngại, một chân tất cả chân, vạn cảnh tự như như, tâm như như ấy là cái chân thực. Cái thấy như vậy tức là tự tánh Giác ngộ Vô thượng”.

Bản tâm mình, bản tánh mình, tự tánh đều cùng một nghĩa, và đó là Nền tảng để thiết lập Con đường và cũng là Quả của Con đường.

 

Huệ Năng này đến canh ba thì vào thất Tổ.

Tổ lấy cà sa trùm quanh ta, không cho người thấy, rồi nói Kinh Kim Cương cho. Đến câu “Ưng vô sợ trụ nhi sanh kỳ tâm” (Khi không chỗ trụ thì tâm ấy sanh). Huệ Năng này ngay nơi lời nói đại ngộ, thấy biết tất cả muôn pháp chẳng lìa tánh mình. Mới bạch với Tổ rằng:

Nào ngờ tự tánh vốn tự thanh tịnh,

Nào ngờ tự tánh vốn chẳng sanh diệt,

Nào ngờ tự tánh vốn tự đầy đủ,

Nào ngờ tự tánh vốn không động lay,

Nào ngờ tự tánh hay sanh muôn pháp.

“Vốn tự thanh tịnh, vốn tự đầy đủ, hay sanh muôn pháp” nói lên những đặc điểm của Đại Toàn Thiện.

Khi Tổ khai thị và “giới thiệu vào” tự tánh cho ngài Huệ Năng, nghi lễ ấy không khác gì một lễ quán đảnh (abhisheka) hay truyền lực, trao quyền (empowerment) của Kim Cương thừa và Thiền tông gọi là “tâm truyền tâm”.

 

Ngộ tự tánh hay thấy tự tánh là “vào trong nhà”, theo lời của Ngũ Tổ. Có cái Thấy thực tại như vậy, bấy giờ mới đi sâu hơn, xa hơn bằng Thiền định và Hạnh.

Như vậy, Nền tảng phải được Thấy, mà theo Đại thừa là Kiến đạo vị hay Thông đạt vị, sau đó là Tu tập vị (Thiền định, Hạnh) để đến Vô học vị là Quả.

Con đường và Hạnh phải được tiến hành trên nền tảng tự tánh này, như Lục Tổ nói trong suốt cuốn kinh.

 

2/ Nền tảng Tự tánh là gì?

    –  Tánh Không

Trong phẩm Trí Huệ thứ 2, và trong suốt cả cuốn kinh, ngài nói Tự tánh là tánh Không:

Bản tánh là Phật, lìa tánh thì không có Phật nào khác.

Sao gọi là Ma ha? Ma ha là lớn, tâm lượng rộng lớn như hư không, không có biên bờ, cũng không vuông tròn lớn nhỏ, cũng chẳng phải xanh vàng đỏ trắng, cũng không giận không vui, không phải không trái, không lành không dữ, không đầu không cuối. Các cõi Phật đồng như hư không, diệu tánh của người đời vốn Không, không có pháp nào có thể đắc. Tự tánh chân không cũng lại như vậy.

Thiện tri thức! Hư không thế giới bao hàm vạn vật sắc tướng, mặt trời mặt trăng, núi sông đất đai, cỏ cây rừng rú, người thiện người ác, pháp thiện pháp ác, thiên đường địa ngục, biển rộng núi cao, đều ở trong cái Không. Tánh Không của người đời cũng lại như vậy”.

(Phẩm Trí huệ, thứ 2)

Trong đoạn này, Lục Tổ xác định tự tánh của mỗi người là tánh Không, chân Không. Nhưng tánh Không này chẳng phải là một cái Không hoại diệt tất cả mà là một cái Không sống động vì bao hàm tất cả vũ trụ. Tánh Không, như kinh Đại Bát Nhã nói, chính là Chân Như. Lục Tổ nói:

Thế nên biết rằng muôn pháp đều ở tự tâm, tại sao chẳng từ trong tự tâm mà thấy ngay bản tánh Chân Như?

 

             –   Ánh sáng

Tánh Không và ánh sáng (quang minh) đi cùng với nhau, không tách biệt:

Trên đất tâm mình là tánh giác Như Lai, phóng ánh sáng lớn (phóng đại quang minh), ngoài soi sáu cửa thanh tịnh, hay phá các cõi trời Lục dục. Tự tánh chiếu bên trong ba độc liền dứt, các tội địa ngục nhất thời tiêu diệt. Trong ngoài sáng suốt không khác Tây phương. Chẳng tu như thế thì làm sao đến cõi kia được”.

(Phẩm Nghi vấn, thứ 3)

Cõi Tây phương là cõi Phật A Di Đà, Vô Lượng Quang. Thấy tự tánh và sống trong tự tánh thì ánh sáng của tự tánh sẽ biến cõi này thành cõi Vô Lượng Quang.

 

  • Biến hóa

Biến hóa là hoạt động của Tự tánh Hóa thân:

Sao gọi là Ngàn Trăm Ức Hóa thân? Nếu chẳng nghĩ muôn pháp thì tánh vốn như hư không. Một niệm nghĩ lường, gọi là biến hóa. Nghĩ lường việc ác thì hóa làm địa ngục; nghĩ lường việc thiện thì hóa làm thiên đường, độc hại hóa thành rồng rắn, từ bi hóa làm bồ tát, trí huệ hóa làm cõi trên, ngu si hóa làm phương dưới. Tánh mình biến hóa rất nhiều, người mê chẳng thể tỉnh giác, niệm niệm khởi ác, thường hành đường ác. Xoay về một niệm thiện thì trí huệ liền sanh. Ấy gọi là Tự tánh Hóa thân Phật”.

(Phẩm Sám hối, thứ 6)

Biến hóa là do nghĩ lường, suy nghĩ so đo phân biệt. Suy nghĩ phân biệt trên tâm vô phân biệt thì suy nghĩ phân biệt ấy cũng là vô phân biệt. Trăm ngàn ức Hóa thân biến hóa trên Pháp thân tánh Không thì trăm ngàn ức Hóa thân ấy cũng là cái dụng của Pháp thân.

 

Sự biến hóa của tự tánh được Lục Tổ gọi là “tự tánh khởi dụng”

Tự tánh bao gồm muôn pháp, gọi là Hàm tàng thức, nếu khởi suy nghĩ tức là chuyển thức. Sanh ra sáu thức, ra sáu cửa, thấy sáu trần. Mười tám giới như vậy đều từ tự tánh khởi dụng.

Nếu tự tánh nhiễm tà thì khởi ra mười tám cảnh giới tà, nếu tự tánh là chánh thì khởi ra mười tám cảnh giới chánh. Nếu dụng xấu ác tức là dụng của chúng sanh, dụng thiện lành tức là dụng của Phật.

Dụng do đâu có? Do tự tánh mà có”.

(Phẩm Phó chúc, thứ 10)

 

Ba tính chất của tự tánh là tánh Không, ánh sáng và biến hóa cũng là ba tính chất then chốt của tánh giác rigpa của Đại Toàn Thiện, và cũng là Ba Thân, Pháp, Báo, Hoá thân:

Phật Ba Thân ở trong tự tánh mình, người đời đều có”.

(Phẩm Sám hối, thứ 6)

Một điểm rất quan trọng nữa của Đại Toàn Thiện là “thấy thế giới này xuất hiện như là trò chơi của tánh giác”, đây là điều tương đương với “tự tánh khởi dụng”, “tánh mình biến hoá rất nhiều”, của Lục Tổ.

 

3/ Tất cả đời sống thế gian hay tâm linh đều được đặt trên Nền tảng tự tánh:

Tất cả đời sống bình thường và tu hành đều có nền tảng là tự tánh. Như ở trên đã nói, “Sáu thức, sáu cửa, sáu trần, mười tám giới đều từ tự tánh khởi dụng”.

 

Với Lục Tổ, tất cả mọi pháp môn tu hành đều phát xuất từ tự tánh (tự tâm) và đưa hành giả trở lại để thấy và sống trong tự tánh.

Trí huệ từ tự tánh mà sanh, và chính là tự tánh:

Hết thảy trí huệ Bát nhã đều từ tự tánh mà sanh, chẳng phải từ ngoài vào, cho nên chớ dùng lầm ý, đó gọi là chân tánh tự dụng”.

(Phẩm Trí huệ, thứ 2)

Chẳng hạn, Bổn đại thệ nguyện theo công thức từ trước nói:

Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ.

Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn.

Pháp môn vô lượng thệ nguyện học.

Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành.

Thì ngài dạy:

Tự tâm chúng sanh vô biên thệ nguyện độ.

Tự tâm phiền não vô tận thệ nguyện đoạn.

Tự tánh pháp môn vô lượng thệ nguyện học.

Tự tánh Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành.

Chúng sanh, phiền não, pháp môn, Phật đạo đều ở trong tự tâm, tự tánh, như là nền tảng. Và muốn độ, đoạn, học, thành thì phải lấy chính nền tảng tự tâm, tự tánh để làm việc đó.

 

Quy y Tam Bảo, ngài lấy tự tánh Tam Bảo làm Nền tảng, Con đường và Quả:

Từ nay về sau, hãy xưng Giác làm thầy, chẳng trở lại quy y tà ma ngoại đạo. Hãy lấy tự tánh Tam Bảo thường tự chứng minh cho mình. Khuyên các thiện tri thức hãy quy y tự tánh Tam Bảo”.

(Phẩm Sám hối, thứ 6)

 

Con đường thế gian và con đường tu đạo đều đi trên nền tảng tự tánh. Nói rộng ra, thế gian sanh tử và Niết bàn an lạc cùng được bao hàm trong nền tảng tự tánh.

Phật pháp tại thế gian

Chẳng lìa thế gian (mà) giác

Lìa thế tìm giác ngộ

Giống như tìm sừng thỏ.

Chánh kiến gọi xuất thế

Tà kiến gọi thế gian

Chánh tà đều dẹp sạch

Tánh giác ngộ rõ ràng.

(Phẩm Trí huệ, thứ 2)

Chính vì sanh tử và Niết bàn đều nằm trong nền tảng tự tánh, thế nên có đốn ngộ thấy tánh. Thấy tự tánh thì sanh tử có muôn vàn khác biệt làm hoa mắt đều tiêu tan, chỉ còn cái thấy thực tại một vị Niết bàn.

 

4/ Con đường: Thiền định và Hạnh

– Thiền định

Trong Kinh Đại Bát Nhã nói con đường tu hành là thấy tánh Không và an trụ trong tánh Không. Thiền định là an trụ trong tự tánh, chẳng lìa tự tánh. Lục Tổ nói:

Chẳng lìa tánh mình là công, ứng dụng không nhiễm là đức. Nếu tìm công đức Pháp thân, hãy y theo đây mà làm, đó là chân công đức”.

(Phẩm Nghi vấn, thứ 3)

Thiền định là chẳng lìa tự tánh. Nói pháp vẫn là thiền định vì:

Nói tất cả pháp mà chẳng lìa tự tánh”.

(Phẩm Phó chúc, thứ 10)

 

Lục Tổ bác bỏ sự ngồi thiền một mực bám vào chẳng động, trong khi thiền định thì thông suốt lúc ngồi thiền và cả lúc bình thường không ngồi:

Người mê bám vào pháp tướng, chấp Nhất hạnh tam muội, nói rằng thường ngồi chẳng động, vọng niệm chẳng khởi nơi tâm, đó là Nhất hạnh tam muội. Nếu hiểu như vậy tức là đồng với loài vô tình, trở lại thành cái nhân duyên chướng đạo.

Thiện tri thức! Đạo vốn thông lưu, sao lại làm cho ngưng trệ. Tâm chẳng trụ pháp thì đạo thông lưu, còn tâm trụ vào pháp, đó là tự trói buộc mình”.

(Phẩm Định Huệ, thứ 4)

 

Đối với ngài, ngồi thiền, thiền định là ở trong tự tánh vốn chẳng động:

Sao gọi là ngồi thiền? Trong pháp môn đây không có chỗ nào ngăn, không có sự gì cản. Ngoài với tất cả cảnh giới thiện ác, tốt xấu, tâm niệm chẳng khởi, gọi là ngồi. Trong thấy tự tánh chẳng động, gọi là thiền.

Sao gọi là thiền định? Ngoài lìa tướng là thiền, trong chẳng loạn là định. Ngoài nếu dính bám tướng thì trong tâm ắt loạn, lìa tướng thì tâm chẳng loạn.

Bản tánh tự tịnh tự định, chỉ vì thấy cảnh, rồi nghĩ cảnh bèn loạn. Nếu thấy các cảnh mà tâm chẳng loạn, đó là chân định. Kinh Bồ tát giới nói: “Tự tánh mình vốn nguyên là thanh tịnh”.

(Phẩm Ngồi thiền, thứ 5)

Tự tánh vốn tự tịnh tự định, vốn nguyên là thanh tịnh, chỉ cần không lìa tự tánh, an trụ trong đó bèn là chánh định.

 

Với người chưa thấy và chưa sống trong tự tánh thì vọng niệm là cái gì đáng sợ, phải diệt trừ. Với người sống nhuần nhuyễn trong tự tánh thì “niệm là dụng của Chân Như”.

Niệm là niệm bản tánh Chân Như. Chân như là thể của niệm, niệm là dụng của Chân Như.

Tự tánh Chân Như khởi niệm, chẳng phải mắt tai mũi lưỡi có thể niệm được. Chân Như có tánh do đó mới có niệm khởi. Nếu Chân Như không có thì mắt tai sắc thanh liền tiêu hoại ngay”.

(phẩm Định Huệ, thứ 4)

 

– Hạnh.

Hạnh là mọi hành động trong đời sống hàng ngày đều không lìa tự tánh, đó là “đạo tràng bất động”.

Tự tánh động dụng, giao tiếp nói năng, ngoài thì ở nơi tướng mà lìa tướng, trong thì ở nơi không mà lìa không. Nếu toàn bám tướng là thêm lớn tà kiến, còn nếu toàn chấp không thì thêm lớn vô minh…

Nơi tất cả mọi chỗ, đi đứng nằm ngồi, thuần một trực tâm, đạo tràng bất động, thành chân Tịnh độ, đây gọi là Nhất hạnh tam muội”.

(Phẩm Phó chúc, thứ 10)

 

Hạnh là luôn luôn thấy bản tánh và hành động trong bản tánh ấy. Đây là cái Thấy, Thiền định, Hạnh và Quả:

Thiện tri thức! Trong niệm niệm, tự thấy bản tánh thanh tịnh, tự tu tự hành, tự thành Phật đạo”.

(Phẩm Ngồi thiền, thứ 5)

 

5/ Một bài kệ của ngài Milarepa về cái Thấy, Thiền định, Hạnh và Quả.

Nếu như Nyingma có Đại Toàn Thiện thì Kagyu có Đại Ấn, và ngài Milarepa là vị Tổ thứ 4 của Kagyu.

 

Rốt ráo của cái Thấy, Thiền định, Hạnh và Quả

 

Cái thấy là trí huệ bổn nguyên trống không

Thiền định, tịnh quang không trụ bám

Hạnh, dòng chảy liên tục không vướng mắc

Quả là sự trần trụi không vết dơ.

 

Cái thấy này, trí huệ bổn nhiên trống không

Có nguy cơ lạc mất trong khi nói

Nếu sự xác quyết không đi theo khi tiếp xúc với ý nghĩa

Những lời nói sẽ không giải thoát bạn khỏi bám chấp vào tự ngã

Và đó là vì sao sự xác quyết rốt ráo lại có nghĩa nhiều như vậy.

 

Thiền định, tịnh quang không trụ bám

Có nguy cơ lạc mất trong khi an định

Nếu trí huệ bổn nguyên không sanh khởi từ trong bạn

Bạn có thể an định vững chắc nhưng điều này không làm bạn giải thoát

Nhưng trí huệ không đến từ hôn trầm hay xáo động

Và đó là vì sao chánh niệm không lang thang lại có nghĩa nhiều như vậy.

 

Hạnh này, dòng tương tục không vướng mắc

Có nguy cơ lạc mất chỉ trong một giả vờ

Nếu cái thấy và thiền định không được bao gồm

Tám pháp thế gian có thể trộn vào trong những theo đuổi tham thiền của bạn

Và đó là vì sao thoát khỏi bám níu và những màn che lại có nghĩa nhiều như vậy.

 

Quả là sự trần trụi thoát mọi khuyết điểm

Có nguy cơ mặc vào áo quần của những thuộc tính

Nếu mê lầm không được chiến thắng tận nguồn của nó bên trong

Sự thực hành của bạn có thể nhắm rất xa, nhưng rơi rất gần

Và đó là vì sao sửa chữa mê lầm lại có nghĩa nhiều như vậy.

 

(Những bài ca chứng ngộ của tông phái thực hành Kagyu - Thiện Tri Thức, 2018)

 

Bài viết liên quan