VŨ ĐIỆU ĐẠI LẠC

VŨ ĐIỆU ĐẠI LẠC

Một tiểu sử của Khenpo Tsultrim Gyamtso Rinpoche do Dzogchen Ponlop Rinpoche soạn.

Nguyên Chân chuyển Việt ngữ (có tham khảo bản dịch của Pema Jyana)

Múa điệu vũ Kim Cương của hiện tướng-Tánh Không, Ngài lướt nhẹ trên bầu trời tự do của chân tánh thực tại. Hát vang những bài ca Kim Cương của âm thanh-Tánh Không, Ngài xua tan bóng tối vô minh khỏi tâm trí của những người phước đức.
VŨ ĐIỆU ĐẠI LẠC

VŨ ĐIỆU ĐẠI LẠC

Một tiểu sử của Khenpo Tsultrim Gyamtso Rinpoche do Dzogchen Ponlop Rinpoche soạn.

Nguyên Chân chuyển Việt ngữ (có tham khảo bản dịch của Pema Jyana)

 

Kính lễ Đạo sư

Hiện thân mọi hoạt động của các Bậc chiến thắng ba thời,

Ngài là sức mạnh và đồng minh cho những ai muốn cắt đứt mạng lưới luân hồi hiện hữu.

Hỡi tràng ngọc của chư vị Karmapa xuyên qua các thời đại,

Những chúa tể của chúng sinh và tri kỷ của những ai khát khao giải thoát,

Con đặt Ngài lên đỉnh đầu, và cúng dường ngài lời cầu nguyện này.

 

Múa điệu vũ Kim Cương của hiện tướng-Tánh Không,

Ngài lướt nhẹ trên bầu trời tự do của chân tánh thực tại.

Hát vang những bài ca Kim Cương của âm thanh-Tánh Không,

Ngài xua tan bóng tối vô minh khỏi tâm trí của những người phước đức.

 

Tâm Ngài, Kim cương của Lạc-Không hợp nhất

Gọi dậy năng lực trí tuệ vĩ đại –

Vị Yogi dũng mãnh vô úy mà mọi suy nghĩ đều tự giải thoát tức thời,

Dechen Rangdrol, xin hãy khởi hiện từ giữa trái tim con.

 

Khenchen Tsultrim Gyamtso, vị cũng được biết đến là Dechen Rangdrol, uyên bác về Kinh điển, Mật điển cũng như mọi lĩnh vực kiến thức chính và phụ. Sự hiển bày thành tựu của Ngài trong kinh nghiệm và chứng ngộ là hoàn toàn viên mãn. Ngài nổi tiếng khắp thế giới, cả ở phương Đông cũng như phương Tây. Một chúng sinh ngu dốt, bình thường như tôi chẳng thể nào viết một tiểu sử đúng đắn, miêu tả đầy đủ những hoạt động của vị đạo sư này, vị Kim Cương Trì, ở cấp độ bên ngoài, bên trong và bí mật. Tuy nhiên, tôi không dám từ chối mệnh lệnh từ Bậc Chiến Thắng, đức Karmapa vinh quang, Ngài Orgyen Drodul Trinle Dorje, vị đã yêu cầu tôi kết tập quyển tiểu sử này. Hơn thế nữa, năm 1993, tôi có phước báu được viết lại hầu hết bản tự truyện của đạo sư Kim Cương Trì, điều mà Ngài trực tiếp kể cho tôi. Vì thế, sau đây sẽ là một miêu tả về tiểu sử của đạo sư ở cấp độ bên ngoài của những biểu hiện hình tướng thông thường.

Câu chuyện sẽ được kể thành bảy phần; mỗi phần xuất hiện tương ứng như trong tự truyện tuyệt vời của Ngài:

 

  1. Sinh Ra Trên Thế Gian Này
  2. Vô Thường Và Thay Đổi
  3. Hành Hương Đến Những Địa Điểm Nhập Thất Linh Thiêng
  4. Nghịch Cảnh Như Là Sự Hỗ Trợ, Tinh Tấn Trong Thực Hành
  5. Lang Thang Ở Những Chốn Hẻo Lánh Và Nghĩa Địa
  6. Trở Về Với Cái Thấy, Cắt Đứt Những Tạo Tác
  7. Tinh Tấn Làm Lợi Lạc giáo lý và chúng sanh theo lệnh Của Đức Rangjung Rigpe Dorje.

 

  1. Sinh Ra Trên Thế Gian Này

 

Rinpoche sinh năm 1935 (năm Hợi Cái thuộc Mộc của chu kỳ thứ mười sáu theo Tạng lịch) ở vùng Tây Tạng nổi danh là Gomde Nangchen. Vùng này được gọi như vậy là bởi vào thời Tishri Repa Karpo và những vị khác, những giáo lý của truyền thừa thực hành đã phát triển rất mạnh mẽ; những vị cư sĩ nam và nữ cũng chuyên tâm thiền định và thọ nhận chỉ dẫn thiền định sâu sắc.

Địa điểm cụ thể nơi Ngài chào đời là vùng trung tâm của Nangchen được gọi là Traripu. Cha của Rinpoche là ông Namgyal Phuntsok, hậu duệ của tộc Gabu Drachung; mẹ của Ngài là bà Mani Wangmo. Lúc chào đời, Ngài được đặt tên là Sherab Lodro.

Ở đây, cuốn tự truyện tuyệt vời nói rằng:

 

Khi được sinh ra, tôi sinh ra một mình.

Khi chết đi, tôi chắc chắn sẽ ra đi một mình.

Biết rõ vậy, tôi hoan hỷ giữa hai giai đoạn này

Ở những chốn cô tịch, tôi lang thang một mình,

Đi tìm con đường của sự giải thoát.

 

  1. Vô Thường Và Thay Đổi

 

Cha mẹ Rinpoche sinh ra bảy người con – năm trai và hai gái – nhưng hai người con đã chết trẻ. Khi Ngài lên hai tuổi, cha Ngài qua đời trong lúc đi buôn bán. Trước mất mát này, mẹ Ngài trở nên vô cùng đau buồn; nhìn từ góc độ bên ngoài, bà cùng với tất cả những người con khác đã vô cùng đau khổ trong khoảng một tháng.

Thế nhưng trải nghiệm của Rinpoche thì khác: Ngài đã có thể đáp lại bi kịch này bằng cách sử dụng nó như là cơ hội để đưa mọi kinh nghiệm dễ chịu và khó chịu vào thực hành của con đường. Trong tự truyện của mình, Ngài nhớ lại rằng:

“Khi đó, kể từ khi còn rất nhỏ, tôi đã không có bất kỳ định kiến vững chắc nào về điều đã xảy ra. Bởi vậy, tôi nhớ lại rằng, tôi đã không trải qua bất kỳ một khổ đau nào. Có một sự xác quyết sinh khởi trong tôi rằng khổ đau khởi lên chỉ là từ những tư tưởng của ta mà thôi.”

 

Khoảng một năm sau, mẹ Ngài đến một ẩn thất rất hẻo lánh và đẹp đẽ tại nơi được gọi là Động Thác Nước; tại đó, bà bắt đầu thực hành “Nyungne Nghìn Phần”, một khóa nhập thất nhịn ăn. Rinpoche đi theo mẹ trong thời gian ấy. Một đêm nọ trong khóa nhập thất, Rinpoche thốt lên với mẹ tên của một trong những anh trai của Ngài, và nói thêm rằng, “Anh đã mất!”. Về sau, mọi người phát hiện ra rằng, anh trai Ngài đã thực sự qua đời vào thời điểm ấy, sau khi du hành đến Tu viện Ngor để thọ giới nguyện đầy đủ của một người xuất gia. Đây là một ví dụ về cách mà Rinpoche sở hữu những nhận thức cao hơn theo một cách thức không bị trở ngại ngay từ khi còn rất nhỏ.

Một phẩm tính đáng kinh ngạc khác mà Rinpoche sở hữu từ khi còn nhỏ là khả năng nhớ về các đời quá khứ, điều mà Ngài nhắc đến trong tự truyện:

 

“Người ta thường nói rằng một số đứa trẻ nhớ được đời quá khứ, bên cạnh việc sở hữu những sức mạnh nhận thức khác; nhưng chúng dần dần bị lãng quên. Tôi đã có được sự chắc chắn về điều này nhờ trải nghiệm của bản thân. […] Hơn thế nữa, đôi lúc tôi nhìn thấy những vách đá hay hang động và tự nhủ, “Mình phải thực hành ở đây trong tương lai”. Lúc khác, nếu tôi nhận thấy một mảnh đất trông ưa nhìn trên một vách đá, tôi thường nghĩ, “Sau này, tôi phải xây một tịnh thất ở đây”. Tôi thường xuyên có những kiểu suy nghĩ như vậy. Dường như chúng khởi lên bởi những thói quen từ việc thiền định trong hang động trong quá khứ hoặc bởi chúng là dấu hiệu rằng tôi sẽ nỗ lực nhập thất trong tương lai.”

 

Như thế, rõ ràng là từ thời thơ ấu, Rinpoche đã là một người tiến hóa cao về tâm linh, người đã đánh thức được tiềm năng giác ngộ lớn lao. Dẫu vậy, Ngài vẫn hành xử theo quan điểm của thế gian bình thường: lúc ở cùng những người bạn thích Giáo Pháp, Ngài thường chơi trò chơi bắt chước trì tụng nghi thức. Khi ở cùng những người bạn nghịch ngợm, Ngài thường chơi cùng các trò nghịch ngợm như ném đá vào chim và v.v.

Ngày nọ, Ngài ném trúng một con chim nhỏ và gây ra vết thương chí tử. Ngài giữ con chim trong tay cho đến khi hơi ấm hoàn toàn biến mất khỏi cơ thể nó. Thấy điều mà mình vừa làm với sinh vật này, ngập tràn lòng thương xót và hối hận, Ngài òa khóc. Trong tự truyện, Ngài kể lại cách mà nhờ sự kiện này, những người bạn lầm lạc của Ngài đã đánh thức lòng đại bi được huân tập trong Ngài và thúc đẩy sự tận tụy với thiện hạnh của Ngài:

“Tôi nghĩ rằng khi ấy, những tập khí sinh ra từ việc trưởng dưỡng lòng bi mẫn trong các đời quá khứ đã được đánh thức trong tôi.”

 

  1. Hành Hương Đến Những Địa Điểm Nhập Thất Linh Thiêng

 

Tự truyện nói rằng:

“Nói chung, dân chúng xứ Kham thích hành hương đến các thánh địa. Tôi thích có những chuyến hành hương từ thuở ấu thơ.”

Như vậy, Rinpoche đã trải qua nhiều gian khổ trong hai chuyến hành hương vào hai giai đoạn khác nhau trong cuộc đời, đến những thánh địa vĩ đại của Tây Tạng. Trong chuyến hành hương đầu tiên, Ngài và em gái Bukyi được mẹ dẫn đi hành hương khắp Tây Tạng. Theo truyền thống của những người hành hương ở Đông Tây Tạng, gia đình tự mình chất những gánh đồ lớn gồm nhu yếu, chăn nệm và v.v. rồi khởi hành về miền Trung tâm Tây Tạng từ Nangchen. Ngày nọ, khi gia đình đang vượt qua một ngọn đèo đặc biệt cao, Rinpoche trở nên mệt mỏi và tức giận; vì thế, Ngài bỏ đi một mình, leo núi theo hướng khác, cho đến khi Ngài đi khá xa với mẹ và em gái.

Sau đó, Ngài nghe thấy mẹ và em gái hét lên, “Một con gấu nâu đang đến gần! Mau mau quay về đây!”. Sức mạnh không thể kiểm soát của nỗi sợ hãi khởi lên trong Rinpoche khi ấy khiến cơn giận dữ trước đó hoàn toàn tan biến. Ngài nhanh chóng chạy về với gia đình. Thực sự, bởi những cảm giác sợ hãi sống động, Ngài thậm chí quên cả gánh nặng hành lý đang mang trên lưng. Tự truyện nói rằng:

“Khi tôi trở về với mẹ và em gái, cả cơn giận và nỗi sợ đều biến mất và tôi đã cảm thấy vui vẻ trở lại. Bây giờ, sau khi quán chiếu cẩn thận, tôi thấy rằng sân hận, sợ hãi và ngay cả sự hân hoan, đều chỉ tùy thuộc vào những tư tưởng của tôi; nhưng khi ấy tôi đã không hề hay biết điều đó.”

 

Từ điều này, chúng ta có thể thấy làm thế nào mà Rinpoche đã học cách tận dụng mọi hoàn cảnh trong đời sống của mình, đưa các cảm xúc vào con đường và biến chúng thành những nhân duyên tích cực.

Chuyến hành hương bắt đầu ở Kham và hướng về phía Bắc đến Tu viện Jang Tana, trú xứ của bậc bảo hộ chúng sinh – Sangye Yelpa. Ở đó, Ngài chiêm bái những tôn tượng vô cùng đẹp đẽ của vua Gesar Xứ Ling cùng vị phối ngẫu Drukmo và ba mươi hiệp sĩ. Ngài phát nguyện trước những tôn tượng này cũng như nhiều bảo vật và nguồn linh thiêng hiếm có khác, chẳng hạn giáo mác, cung và kiếm của những chiến binh xứ Ling.

Đi qua các vùng thuộc Nam Tây Tạng như Chudo ở Powo, Rinpoche viếng thăm Kongpo Bonri, một ngọn núi thiêng nổi tiếng trong truyền thống đạo Bon. Sau đấy, Ngài đến Taklha Gampo, trụ xứ của Pháp chủ Gampopa. Ngài cũng viếng thăm các thánh địa đã được chư vị Karmapa ban phước. Ngài viếng thăm tất cả những nơi này bằng cách đi nhiễu vòng lớn theo chiều kim đồng hồ.

Ngài cũng viếng thăm mọi thánh địa trong vùng Yarlung, bao gồm Yumbu Lakhar, cung điện đầu tiên của Ngài Nyatri Tsenpa - vị vua đầu tiên của Tây Tạng; Yarlung Sheldrak, một động thực hành của Đạo Sư Liên Hoa Sinh; và Sảnh Đường Độ Mẫu Tara tại Chùa Tradruk. Sau đó, Ngài viếng thăm Tu viện Samye ‘Chùa Bất Biến Tự Sinh’, được xây dựng bởi Đức Liên Hoa Sinh – đạo sư xứ Uddiyana, vua Trisong Detsen và tu viện trưởng vĩ đại Tịch Hộ.

Rinpoche dâng những cúng dường đến chùa chính cùng với các tòa nhà là đại diện cho bốn lục địa và tiểu lục địa.

 

Từ Samye, Rinpoche đi qua đèo Gokar và tiến về Lhasa. Trong chuyến đi đó, Rinpoche và gia đình hết sạch lương thực mà họ mang theo; vì thế, họ đã đi xin ăn. Họ đã nhận được Tsampa chỉ đủ cho bữa sáng và mẹ của Ngài giữ phần Tsampa này trong một chiếc túi. Bỗng nhiên, không biết từ đâu xuất hiện một con chó nhỏ cắn chiếc túi, khiến cho tất cả Tsampa rơi vãi trên mặt đất. Rinpoche kể lại điều này trong tự truyện:

“Tôi không biết mẹ và em gái đã cảm thấy thế nào, nhưng về phần mình, tôi thấy đói và điều này xảy ra ngay khi chúng tôi sắp được ăn. Tôi đã vô cùng buồn bã. Bây giờ khi nghĩ về điều đó, cảm giác đã khởi lên trong tôi khi đó chẳng khác với cảm giác đau khổ của một người giàu có bị mất hết tài sản của họ.”

 

Ngài cũng ban những giáo huấn liên quan đến sự kiện này dưới dạng bài kệ:

Nếu bạn bám chấp vào những lạc thú của cuộc sống thế tục

Dù bạn là một vị vua mất đi vương quốc của mình,

Hay một gã ăn xin mất đi đồ ăn, về điều này, tôi dám chắc:

Sự khổ đau mà tâm bạn chịu đựng cũng giống như nhau.

[…]

 

Khi quán chiếu về cách khổ đau sinh khởi bởi sự bám luyến

Chúng kiên cố, và duy trì trong thời gian dài, dù bạn có thật nhiều lạc thú,

Bạn sẽ hiểu rằng khổ đau của người nghèo là tạm thời,

Và lòng bi mẫn dành cho người giàu có - những người bám luyến vào sự hiện hữu thực của mọi thứ, sẽ tăng trưởng.

 

Rinpoche đã hoàn thành chuyến đi đến Lhasa, viếng thăm những địa điểm linh thiêng nhất ở thành phố. Sau khi rời Lhasa, Ngài trở về Kham bằng cách đi từ Bắc xuống Nam. Theo cách này, tất cả những thánh địa được đi vòng quanh theo một tuyến đường đi nhiễu lớn theo chiều kim đồng hồ. Trên đường xuôi về từ phía Bắc, Ngài có một trải nghiệm lạ thường, điều mà Ngài miêu tả trong tự truyện:

“Như thể tôi đang nằm mơ nhưng cùng lúc, tôi thực sự nghe thấy âm thanh của một con gấu và như thể tôi thực sự cảm thấy sự hiện diện của nó. Tôi đã vô cùng sợ hãi. Bây giờ, khi tôi xem xét trải nghiệm này, tôi có thể thấy rằng đây không gì khác hơn là một sự biểu hiện rõ ràng của phương diện tâm trí đã quen thuộc với nỗi sợ hãi của tôi. Tôi có thể thấy với sự xác quyết sâu sắc rằng nguyên tắc tương tự áp dụng với những thiền định về vô ngã, tánh Không và chư Bổn Tôn, cùng những Mạn đà la của Kim Cương thừa: bằng cách trau dồi sự quen thuộc với chúng, những hình tướng xuất hiện rõ ràng của những thực tại này sẽ tăng trưởng.”

Rinpoche ban những bài kệ chỉ dẫn sau:

 

Bằng cách làm quen với sợ hãi và sân giận,

Những sự xuất hiện rõ ràng của chúng sẽ thực sự gia tăng.

Thấy như vậy, bạn có thể tận dụng mọi hoàn cảnh:

Nhờ sự làm quen, bạn chắc chắn có thể phát triển những sự xuất hiện rõ ràng

Về tánh Không, chư Bổn Tôn và những Mạn đà la

[…]

Người ta nói rằng thật khó để đền đáp lòng tốt của cha mẹ,

Nhưng còn khó hơn nhiều để báo ơn cha mẹ,

Khi họ lại là người giới thiệu bạn vào giáo Pháp.

Thấu hiểu như thế, tôi cầu nguyện rằng tất cả chúng sinh mẹ hiền đều đạt giác ngộ.

 

Cuối cùng, Rinpoche an toàn trở về quê hương. Đấng đạo sư bước vào tuổi mười bảy khi tiến hành chuyến hành hương thứ hai ở Tây Tạng và lần này, Ngài du hành cùng với một anh trai và một chị gái. Họ đi tuyến trung tâm hướng về phía Bắc, cuối cùng đến Lhasa.

 

Tự truyện kể rằng:

“Khi mới lên đường, chúng tôi phải mang theo rất nhiều thứ, bao gồm cả thực phẩm như thịt, bơ, bánh tsampa và chăn nệm. Điều này làm cho hành lý của chúng tôi trở nên vô cùng nặng nề. Như vậy, chúng tôi đã trải qua ba giai đoạn khổ: lúc đầu là khổ vì phải mang theo lương thực nặng nề, những thứ rất khó mang theo. Ở giữa, chúng tôi đau khổ khi biết rằng nhu yếu phẩm của chúng tôi đang dần cạn kiệt.

Và cuối cùng là nỗi đau khổ vì không còn chút lương thực nào cả. Trong ba điều đó, nỗi khổ khi có đầy đủ lương thực là tồi tệ nhất, bởi vì nó có hai mặt: những lương thực nặng thì khó mang theo, và người ta thường xuyên lo lắng bị trộm cướp đánh cắp hoặc bị mất chúng.”

 

Ngài đưa ra bài kệ giáo huấn này:

 

Kye Ma! Khi quay cuồng trong sự tồn tại của chấp ngã,

Không có sự lựa chọn nào khác ngoài việc dựa vào thức ăn và tài sản.

Nhưng, nhìn thấy nỗi đau khổ của sự tích lũy và mất mát,

Sự nhiệt tình lớn lao được sinh khởi đối với con đường,

Của hành giả Du-già tự do khỏi hành động và sự bám chấp.

 

Rinpoche tiếp tục cuộc hành hương đến Lhasa, viếng thăm những địa điểm linh thiêng như Samye và dâng những cúng dường và cầu nguyện như trước đây. Để biết được nơi mà những người Tây Tạng đầu tiên sinh sống, Rinpoche đã lên đường đến thăm vùng đất linh thiêng Yarlung. Để đến đó, Ngài phải băng qua một nhánh nhỏ của sông Brahmaputra tại Tsethang. Khi đến giữa sông, mực nước dâng cao đột ngột. Đột nhiên, Rinpoche thấy mình sắp bị nước nhấn chìm hoàn toàn. Vào thời điểm đó, Ngài được bổn tôn, Thánh Cứu Độ Mẫu - Ārya Tārā, trực tiếp bảo vệ. Tự truyện của Ngài chia sẻ:

Tôi đã có niềm tin lớn lao vào Đức Tārā cao quý từ khi còn rất trẻ và đã thực hành Tārā trong một thời gian dài. Ở đó, ngập trong nước, mọi ý nghĩ trong tâm trí tôi về ba thời đều dừng lại, và tôi khẩn thiết cầu nguyện đức Quan Âm Tārā. Mặc dù tôi không biết bơi nhưng điều tiếp theo tôi biết là tôi đã đi thẳng vào tới bờ sông.”

 

Ngài hát lên bài kệ giáo huấn sau:

Sau những kinh nghiệm của khổ đau khó mà có thể chịu đựng nổi

Tôi trở nên hạnh phúc và tươi sáng hơn bao giờ hết

Hạnh phúc và khổ đau đều thay đổi, chúng là vô thường

Đừng để cho bám luyến vào sự thường còn đánh lừa tâm trí bạn.

 

Ngày hôm sau, ba anh em gặp nhau tại một tu viện ở Tsethang, và từ đó họ viếng thăm tất cả các địa điểm linh thiêng của Yarlung. Một lần nữa, vượt qua các đèo núi Khyak và Gökar, v.v., và sử dụng tuyến đường phía bắc, họ trở về nhà một cách thoải mái.

 

Tóm lại, Rinpoche không áp dụng phong cách ngày nay của những vị thầy lớn hay những nhân vật quan trọng - những người coi cuộc hành hương như một kỳ nghỉ thú vị. Thay vào đó, Ngài đã thực hành theo bước chân của những người có phước báu và niềm tin lớn lao, kham nhẫn chịu đựng những gian khổ to lớn để thực hành giáo Pháp chân chính.

Ngài thực hiện cuộc hành hương theo cách của một người bình thường, khiêm tốn, và nhờ những kinh nghiệm đặc biệt trên con đường, ngài đã tích lũy được thật nhiều công đức và trí tuệ giúp tịnh hóa những che chướng. Bằng cách này, Ngài đã phát triển những kinh nghiệm và chứng ngộ độc đáo. Sau này, Rinpoche luôn mở rộng sự hỗ trợ của mình tới những người hành hương bình thường ở Ấn Độ và Nepal để họ có thể thực hành Pháp chân chính. Ngài biết rõ niềm vui nỗi buồn của họ và đặc biệt vui mừng trước những nỗ lực của họ.

 

  1. Nghịch Cảnh Như Là Sự Hỗ Trợ, Tinh Tấn Trong Thực Hành

 

Từ năm lên tám đến khi mười chín tuổi, Rinpoche nương tựa Độ Mẫu Tara tôn quý là Bổn tôn của mình và tham gia vào thực hành Tara. Nhiều dấu hiệu tuyệt vời về những thành tựu trong thực hành đã khởi lên, chẳng hạn giấc mơ mà trong đó một người phụ nữ xinh đẹp và trang nghiêm bảo vệ Ngài khỏi nỗi sợ hãi. Từ đó trở về sau, đấng đạo sư xem Độ Mẫu Tara tôn quý là Bổn tôn chính cho sự hành trì liên tục. Ngài đã khám phá một lời cầu nguyện đến Độ Mẫu Tara như là một kho tàng tâm và Ngài cũng biên soạn một bài ca cầu nguyện khác đến Độ Mẫu Tara, cùng với bài ca tán thán miêu tả cách mà Độ Mẫu bảo vệ khỏi tám và mười sáu kiểu sợ hãi. Ngài phát triển một vũ điệu kim cương kèm theo những lời cầu nguyện và đệ tử của Ngài cho đến hiện nay vẫn tiếp tục thực hành những bài ca và vũ điệu này.

 

Khi mười chín tuổi, Rinpoche bị mắc phải một căn bệnh nghiêm trọng. Trong tự truyện, Ngài chia sẻ rằng đây là lần đầu tiên Ngài cảm nhận nỗi sợ hãi của cái chết và nhớ về cách mà Ngài xem hoàn cảnh tiêu cực, xem sự bất hòa của các đại mà bệnh tật đem đến như là một thiện tri thức tâm linh:

 

“Nỗi sợ này, thứ được gây ra bởi sự vô thường, khiến tôi quán chiếu sâu sắc hơn về chính lẽ vô thường. Nó giúp tôi hiểu rằng những nỗ lực xoay quanh cuộc đời thế tục này thực sự chẳng có ý nghĩa gì. Những ý nghĩ này khởi lên trong tôi hết lần này đến lần khác, “Nếu tôi không chết vì căn bệnh này, tôi sẽ thành tựu Chánh Pháp”. Tôi đã nhiều lần phát nguyện như vậy. Căn bệnh khiến cổ tôi sưng lên. Cuối cùng, mủ bắt đầu chảy ra từ cổ và tôi nhanh chóng bình phục. Tôi trở về trạng thái mạnh khỏe trước kia; sự xác tín đối với thực hành Pháp của tôi trở nên kiên cố không thể lay chuyển.”

 

Ngài cung cấp những đoạn kệ sau đây như là bài ca chỉ dẫn:

 

Kyema! Hết lần này tới lần khác, tôi đã thiền định về khổ đau

Của ba cõi luân hồi và về vô thường cũng như sự thay đổi.

Trải nghiệm cá nhân về khổ đau của vô thường

Là vị Thầy đầu tiên khuyến khích tôi hướng về Pháp.

[…]

Bị nghịch duyên và bệnh tật giày vò,

Khổ đau cận kề bờ vực của cái chết,

Tôi thấy rằngchỉ Giáo Pháp chân chính

Mới cho ta nơi nương tựa chân thật,

Và phát nguyện đạt giác ngộ vì lợi lạc của mọi chúng sinh.

 

Để thực hành Chánh Pháp một cách chuẩn xác, Rinpoche biết rằng Ngài cần nương tựa một vị đạo sư, một thiện tri thức tâm linh. Ngài bắt đầu hành trình bằng cách du hành đến Dzongsar ở Dege, nơi Ngài hạnh ngộ đạo sư Jamyang Khyentse Chokyi Lodro. Từ vị này, Ngài thọ nhận toàn bộ các giai đoạn của đại quán đảnh của Hevajra vinh quang - vị Bổn tôn chính yếu của truyền thống Sakya tôn quý. Từ hai trao truyền của truyền thống Con Đường Với Quả – Giải Thích Cho Đại Chúng và Giải Thích Cho Đệ Tử, Rinpoche thọ nhận trao truyền Giải Thích Cho Đệ Tử, cùng với trao truyền riêng về những biểu tượng sâu xa. Ngài cũng thọ nhận thực hành bên ngoài và bên trong của Virupa, thực hành nội và ngoại về Con Đường Sâu Xa, thực hành Kim Cương Du Già Nữ Naro Khechari, Toát Yếu Nghi Quỹ và nhiều trao truyền khác.

Khi ấy, Dezhung Rinpoche, một đạo sư uyên bác và thành tựu, vị đã thọ nhận Giải Thích Cho Đệ Tử năm lần, đóng vai trò là Kyorpon (vị thầy trợ giảng) cho Chokyi Lodro Rinpoche. Từ vị này, Rinpoche học toàn bộ những bài tập du già về kinh mạch và khí (Tsalung); Ngài cũng nhận khẩu truyền cho toàn bộ trước tác của Năm Vị Tổ Sakya.

 

Tự truyện kể rằng:

“Trong khi là Kyorpon, Ngài dạy tôi về kinh mạch và khí y theo giáo lý trong truyền thừa Kagyu. Ngài cũng kể về những câu chuyện cuộc đời của các thành tựu giả Kagyu. Như thế, trong lúc thọ nhận những giáo lý từ truyền thừa Sakya, niềm tin của tôi với giáo pháp Kagyu cũng được tăng trưởng.”

 

Như thế, Rinpoche thọ nhận trọn vẹn những quán đảnh làm chín và chỉ dẫn giải thoát; sau đó, Ngài trở về quê hương.

Vị đạo sư tiếp theo mà Ngài nương tựa là Lama Zopa Tharchin đáng kính. Khi Rinpoche lần đầu tiên nghe được danh hiệu của vị này và về việc vị này nổi tiếng vì sống chủ yếu trong hang động và là một Yogi vượt thoát khỏi hành động giống như Tổ Milarepa, thoát khỏi mọi bám chấp về đồ ăn, của cải và tài sản, niềm tin khởi lên và Rinpoche khởi hành đến Khampe Dorje Drak.

 

Tự truyện kể rằng:

“Khi tôi gặp đạo sư lần đầu tiên, Ngài đang đọc từ tiểu sử của Đức Bà Machik Labdron. Đặc biệt, Ngài đã đọc đến phần kể về cách mà khi chào đời, Đức Bà Machik có thể bay lên cách mặt đất khoảng nửa mét và duy trì ở đó trong tư thế nhảy múa, ba mắt của bà nhìn chằm chằm vào không gian. Khi ấy, đôi mắt của đạo sư nhìn thẳng vào tôi. Ngài bảo tôi rằng đây là một sự trùng hợp cát tường.”

 

Như thế, theo cách thức tương tự như khi đức Milarepa lần đầu hạnh ngộ Tôn giả Marpa, những nhân duyên cát tường cho lần đầu tiên gặp gỡ giữa đạo sư và đệ tử đã hội tụ một cách xuất sắc.

Lama Zopa Tharchin đáng kính đã bước vào đời sống tu sĩ tại Tu viện Dilyak vinh quang. Về sau, Ngài hoàn thành khóa nhập thất ba năm truyền thống. Ngài cũng tiến hành một “hành hương lễ lạy” từ Kham đến Lhasa, một chuyến hành hương mà trong đó, kinh nghiệm và chứng ngộ đặc biệt đã bám rễ trong tâm Ngài.

 

Tự truyện kể rằng:

“Tôi từng hỏi đạo sư về trải nghiệm “hành hương lễ lạy” của Ngài. Ngài kể với tôi rằng, ban đầu thì nó rất khó khăn, bởi va chạm với đất đá gập ghềnh là chuyện khá khó chịu. Tuy nhiên, khi đã trở nên quen thuộc, Ngài nói, chẳng còn khó khăn gì nữa cả. Và khi đã hoàn toàn thích nghi, mọi chuyện như thể là thân thể đạt được tiềm năng thích ứng trọn vẹn: thân cảm thấy thoải mái và nhẹ nhàng; tâm, trong trạng thái thích ứng mới được tạo ra, thoát khỏi sự uể oải hay kích động và sở hữu sự sáng tỏ tuyệt diệu, Ngài đã nói như thế. Sự sáng tỏ được tăng cường này của tâm đôi lúc chạm đến một điểm mà đạo sư cảm thấy Ngài sắp đạt được những sức mạnh nhận thức cao hơn. Tuy nhiên, Ngài nhớ về những chỉ dẫn sâu xa và được lặp đi lặp lại của vị Thầy và nhờ đó, Ngài tiếp tục tiến lên, thoát khỏi mọi bám chấp hay cảm giác tham muốn đạt được một kết quả như vậy.”

 

Sau đó, Lama Zopa Tharchin (Zothar) đóng vai trò là đạo sư nghi lễ (Dorje Lopon/Kim Cương Thượng Sư) trong ba năm. Khi hoàn thành những nhiệm vụ này, Ngài phát nguyện thực hành nhất tâm trong một hang động nơi một thung lũng không có người ở. Thoát khỏi những thoải mái của chỗ ở quen thuộc, Ngài du hành đến Khampe Dorje Drak, một hang động thực hành cách Tu viện Dilyak nửa ngày đường. Tại địa điểm này, Lama Zothar trải qua vô vàn khó khăn để thực hành Pháp, buông bỏ mọi bận tâm với lạc thú của cuộc đời này.

Chính từ vị đạo sư này, tại nơi này, Rinpoche thọ những chỉ dẫn về Mahamudra – Đại Ấn. Sau khi hoàn thành tốt những thực hành sơ khởi bên ngoài (phổ thông) của Đại Ấn, thực hành sơ khởi bên trong (không phổ biến) và bốn thực hành sơ khởi đặc biệt, Rinpoche thọ nhận những giải thích về con đường Đại Ấn sâu xa khiến cắt đứt mọi sự tạo tác khái niệm. Đó không chỉ là những bài giảng dựa trên kinh văn; chúng là trao truyền sâu xa, một Thầy – một trò, được ban theo lối những chỉ dẫn truyền khẩu trực tiếp.

Khoảng một lần mỗi tuần, sau khi hoàn thành một giai đoạn thực hành miên mật, Rinpoche dâng sự thực chứng của mình (tokbul) lên đạo sư, thọ nhận chỉ dẫn trực chỉ tiếp theo và phương pháp để xua tan chướng ngại và tăng trưởng thiền định. Theo cách này, Ngài thọ nhận toàn bộ mọi phương pháp và chỉ dẫn truyền thống của truyền thừa Kagyu.

Lama Zothar thường nhắc danh hiệu của Drupon Tenzin Rinpoche với Rinpoche, vị mà Ngài nói rằng nắm giữ trao truyền Sáu Pháp của Naropa, con đường của phương tiện. Như thế, Rinpoche phát triển mong muốn được hạnh ngộ Drupon Tenzin Rinpoche và thọ nhận những giáo lý về Sáu Pháp của Naropa từ Ngài.

 

Nhưng trước khi hoàn thành giai đoạn tu tập này với Lama Zothar, Rinpoche thọ nhận quán đảnh cho thực hành Chod (cắt đứt) sâu xa từ Ngài, cũng như chỉ dẫn cho các quán tưởng của thực hành Chod và v.v. theo lối chỉ dẫn trực tiếp, cá nhân, mà không dựa vào những bản văn. Sau đó, Rinpoche thực hành Chod mỗi tối không gián đoạn.

Theo lệnh của đạo sư, Rinpoche sau đấy khởi hành về tu viện Dilyak để gặp đạo sư nhập thất Lama Sangye Phuntsok. Khi ấy, Ngài cũng gặp Khenpo Tsegyam, người sống cùng Lama Sangye Phuntsok tại trung tâm nhập thất và Karma Trinley Rinpoche, vị mà cùng với đoàn tùy tùng đã đến thăm tu viện. Lama Sangye Rinpoche bảo Rinpoche và những vị khác rằng mặc dù hành giả Kagyu có truyền thống thực hành mạnh mẽ, có rất ít đạo sư Kagyu uyên bác về nhận thức xác thực (nhận thức luận và lô-gic Phật giáo). Ngài nói trong tương lai, sẽ rất lợi lạc với truyền thống Kagyu nếu giáo lý này được học hỏi sâu rộng hơn.

 

Lama Sangye Rinpoche sau đó hướng dẫn Rinpoche học hỏi những giáo huấn về nhận thức xác thực từ Khenpo Tsegyam; Ngài cũng ban quán đảnh của đức Văn Thù, sư tử của ngôn ngữ, và bắt đầu truyền thống nghiên cứu nhận thức xác thực tại các trung tâm nhập thất khi ấy.

Rinpoche về sau thường nói về tác động mà sự nghiên cứu lô-gic và nhận thức luận Phật giáo đem đến cho thực hành thiền định của Ngài. Ngài nói về cách mà con đường của lập luận lô-gic hỗ trợ thực hành thiền định mà trước kia Ngài thọ nhận dựa trên chỉ dẫn cốt tủy, về cách mà nó tăng trưởng sự tin tưởng của Ngài với con đường, điều mà trước kia chủ yếu chỉ dựa vào đức tin.

Hơn thế nữa, nhờ những chỉ dẫn truyền miệng của đạo sư, trước kia Ngài thiền định về vô ngã và sự không có hiện hữu thực; sau này, nhờ những nghiên cứu về nhận thức xác thực, sự xác quyết của Ngài về vô ngã và tánh Không ngày càng tăng; và những kinh nghiệm xuất sắc khác khởi lên trong dòng tâm thức Ngài. Như vậy, Ngài không chỉ trở nên yêu thích nhận thức xác thực mà cảm hứng đối với sự hành trì cũng được tăng trưởng.

 

Tuân theo những chỉ dẫn của đạo sư nhập thất Lama Sangye, Rinpoche đã nghiên cứu nhận thức xác thực trong khuôn khổ một khóa nhập thất thực hành. Rinpoche sau này nói rằng điều này hóa ra là một hình thức phục vụ tốt lành đối với những giáo lý của truyền thừa thực hành.

Một lần nữa, Rinpoche trở về sống cùng Lama Zothar đáng kính trong vài tháng. Trong suốt thời gian này, đạo sư kiểm tra sự chứng ngộ của Ngài về bản tính chân thật, chẳng thể diễn tả của tâm và xua tan những nghi ngờ còn lại. Rinpoche phát triển quyết tâm vững chắc về việc lang thang từ động nhập thất này đến động khác, không bám chấp vào những sở thích cá nhân, và nhiều lần phát nguyện điều này trở thành hiện thực.

 

  1. Lang Thang Ở Những Chốn Hẻo Lánh Và Nghĩa Địa

 

Theo lệnh của Lama Zopa Tharchin đáng kính, Rinpoche đến Lawa Drub Puk, một động thực hành không quá xa nơi Rinpoche chào đời. Động này được biết là động thực hành của thành tựu giả Lawapa, vị được cho là đã bay một cách diệu kỳ từ Ấn Độ đến đó và thực hành thiền định. Trong hang động rất hẻo lánh và dễ chịu này, Rinpoche chủ yếu thực hành Đạo Sư Du Già về Đức Liên Hoa Sinh và tiểu sử của Tổ Milarepa vào ban ngày, trong khi tinh tấn thực hành Chod vào ban đêm.

Tự truyện kể rằng:

Khi thực hành một mình trong những hang động, điều quan trọng là đọc câu chuyện cuộc đời

Của Đức Milarepa và những bài ca chứng ngộ của Ngài nhiều lần …

Như thế, tôi đã thực hành, theo lệnh của đạo sư,

Trong hang động trống không và hẻo lánh

Được ban phước bởi đại thành tựu giả Lawapa.

Bây giờ, mặc dù tuổi trẻ đã đi qua, sự hài lòng của tôi lại tăng trưởng.

 

Đêm nọ trong khóa nhập thất, Rinpoche nằm mơ rằng trái tim Ngài bị một con quạ vồ lấy; nó bay đi dọc theo một dòng sông lớn chảy từ Tây sang Đông. Gần hang động mà Rinpoche đang thực hành, có một đạo sư tên là Lama Rabjor, nổi tiếng vì sở hữu những sức mạnh nhận thức cao hơn một cách vô ngại.

Rinpoche đến gặp Lama Rabjor, kể về giấc mơ và nói ra mong muốn chung về việc du hành đến Tsurphu. Đáp lại, Lama trao cho Rinpoche quán đảnh Phổ Ba Kim Cương từ pho Sangtik, cùng với tiên đoán rằng Rinpoche nên đến miền Trung Tây Tạng.

Do đó, Rinpoche đã thực hành Phổ Ba Kim Cương trong động nhập thất Lawa và cũng làm nhều cúng dường và phát nguyện. Sau đấy, Ngài khởi hành về miền Trung Tây Tạng. Tự truyện kể rằng:

 

“Mong mỏi được diện kiến Đức Karmapa vinh quang, hiện thân hoạt động giác ngộ của tất cả các Bậc Chiến Thắng và khát khao thọ nhận từ Drupon Tenzin Rinpoche những chỉ dẫn truyền miệng sâu xa về Sáu Pháp Du Già, tôi đã lên đường một mình, như kẻ khát đi tìm nước.”

 

Trên đường đến miền Trung Tây Tạng, Rinpoche ngừng chân tại nhiều địa điểm hành hương và cầu nguyện rằng giáo lý của Đức Phật được phát triển và lan xa tỏa rộng; tất cả vô lượng hữu tình chúng sinh sẽ được hạnh phúc và hoan hỷ. Cuối cùng, Ngài bình an đến được Tolung Tsurphu vinh quang, địa điểm được ban phước bởi mười sáu vị Karmapa vinh quang, bắt đầu từ Tổ Dusum Khyenpa. Tsurphu được xem là một thánh địa thù thắng về tâm của đức Thắng Lạc Kim Cang  (Chakrasamvara).

Tán thán địa điểm này, Ngài hát lên bài ca kim cương:

 

NAMO
Tam Bảo, Ba gốc, và vô lượng chư Bổn Tôn,

Con nguyện quy y từ nay cho đến khi giác ngộ.

Con xin tán thán chỉ một phần nhỏ những phẩm tính

Của địa điểm Akaniṣhṭa này, một thánh địa của tâm giác ngộ.

 

Từ Tôn giả Dusum Khyenpa cho đến

Ngài Rigpe Dorje, chỗ quy y không lừa dối,

Địa điểm thù thắng, vinh quang của tâm giác ngộ này,

Akaniṣhṭa, được ban phước bởi mười sáu đức Karmapa theo tuần tự.

 

Những núi đá ở đây có thể xuất hiện là chắc đặc,

Nhưng đó chỉ là ảo tưởng của ý nghĩ nhị nguyên:

Thực sự, chúng là hiện tướng-tánh Không, mạn-đà-la của chư Bổn Tôn.

Khi sự xác quyết về điều này trở nên ổn định,

Tất cả những ai thực hành ở đây

Sẽ không cần nỗ lực mà tự nhiên được hoàn thiện

Những phẩm tính xuất sắc của các địa và con đường

Của đại mật Kim Cương thừa –

Về điều này, tôi đã có được sự chắc chắn.

 

Tất cả chư vị Karmapa thời vị lai

Cũng chắc chắn sẽ chuyển Pháp luân ở nơi này.

Vì thế, nguyện những khe vách giữa các núi đá

Ngập tràn những đệ tử của giáo lý Karmapa!

 

Như đàn ong với một vườn hoa,

Nguyện thiện nam, tín nữ của thế giới

Lang thang tại những ẩn thất hẻo lánh này.

Nguyện danh tiếng của họ lan xa khắp thế gian

Và nguyện cho những trái tim chí thành tỏa sáng rực rỡ!

 

Rinpoche bổ sung rằng:

“Quán chiếu về những phẩm tính xuất sắc của cõi Akaniṣhṭa này, một thánh địa thù thắng của tâm giác ngộ, tôi đã viết những lời này thành giai điệu và áp dụng cho chính mình tinh tấn thực hành Đạo Sư Du Già về Đức Karmapa vinh quang.”

 

Tại Tsurphu, cùng với tập hội tín đồ đông đảo, Rinpoche chứng kiến Đức Karmapa cử hành nghi lễ Vương Miện Kim Cương quý báu, giải thoát nhờ nhìn ngắm. Tự truyện kể rằng:

 

“Ngay lúc ấy, tôi đã sở hữu sự xác quyết vững chắc rằng không phải chiếc mũ gia trì cho Đức Karmapa mà chính Đức Karmapa ban phước cho chiếc mũ. Vì thế, bằng tâm, tôi thỉnh cầu các quán đảnh về thân, khẩu, ý của đạo sư và tưởng tượng, với sự tin tưởng, rằng tôi thọ nhận quán đảnh và ban phước từ thân, khẩu, ý giác ngộ. Nhìn chung, Vương Miện Kim Cương, thứ giải thoát nhờ nhìn ngắm là một thứ thật tuyệt diệu; nhưng đó chỉ là một ví dụ về trí tuệ tự sinh của Đức Karmapa. Tôi tin tưởng rằng chiếc ‘mũ’ chân thật của trí tuệ Đức Karmapa vẫn luôn ở bên bất khả phân với những hóa hiện tuần tự qua các đời của Đức Karmapa và tôi trân trọng phước báu khi có được sự tin tưởng này. Tôi vẫn luôn cảm thấy chiếc mũ này là thứ gì đó mà Đức Karmapa phô diễn ra vì những đệ tử không thể thấy được chiếc mũ trí tuệ tự sinh của Ngài và rằng chính Đức Karmapa, bất kể hóa hiện nào, cũng đều có thể làm một chiếc mũ với tính chất để làm mẫu này.”

 

Sau đó, Rinpoche đến nghĩa địa lớn của Tsurphu, nơi Ngài thực hành, theo trình tự xuôi và ngược, thiền định về thập nhị nhân duyên. Tiếp đó, Ngài viếng thăm và thiền định trong động thiền định của Đức Karmapa thứ 9, Động Kyimo, động thực hành của Đấng Repa Chenpo và các địa điểm khác. Ngài thiết tha được thỉnh cầu chỉ dẫn trực chỉ về Đại Ấn từ pháp chủ vinh quang của các Bậc Chiến Thắng, Đức Karmapa Rangjung Rigpe Dorje. Ngài đã thỉnh cầu một buổi diện kiến thông qua thị giả cá nhân và lập tức được đưa vào gặp Đức Karmapa.

 

Tự truyện kể rằng:

“Ngài hỏi tôi, “Tinh túy của tâm con giống cái gì?”. Lập tức tâm tôi thoát khỏi những tư tưởng và trong chốc lát, tôi chẳng thể nói gì. Cuối cùng, tôi đáp rằng, “Khi phân tích tâm, con chẳng thể tìm thấy nó; nhưng khi tâm nghỉ ngơi, nó sở hữu sự sáng suốt”. Ngài cười và bảo, “Đúng, chính là nó. Mọi đối tượng là hiện tướng – tánh Không bất khả phân. Mọi trạng thái tinh thần là sáng tỏ – tánh Không bất khả phân. Mọi cảm xúc là lạc – Không bất khả phân. Đấy là cách mà chúng thực sự là; hãy nhận ra chúng như vậy!”. Trong thoáng chốc, nhờ sự ban phước của đạo sư, tâm tôi một lần nữa lại thoát khỏi những tư tưởng và tôi ngồi yên lặng. Ngài nhìn tôi rồi bảo, “Hãy thực hành như vậy trong hang động”. Tôi trở về hang động thực hành một lần nữa, quán chiếu nhiều lần về ý nghĩa của những lời Ngài nói. Tôi đạt được sự xác quyết mạnh mẽ rằng mặc dù từ ngữ của Ngài ngắn gọn, chúng sở hữu ý nghĩa sâu sắc và bao la. Nhờ quán chiếu về những chỉ dẫn truyền miệng sâu xa này, từ khi thọ nhận chúng đến nay, tôi hiểu rằng chúng chứa đựng sự sâu sắc, và những điểm cốt yếu của tri kiến về toàn bộ Kinh điển và Mật điển.”

 

Tự truyện của Rinpoche tiếp tục làm sáng tỏ ý định trí tuệ từ ba dòng chỉ dẫn trực chỉ của Pháp chủ của các Bậc Chiến Thắng dưới dạng một bài ca chứng ngộ mở rộng.

Cũng chính trong giai đoạn này, Rinpoche gặp Drupon Tenzin Rinpoche. Trình bày đôi chút về tiểu sử của Drupon Tenzin, tự truyện có viết rằng:

 

“Ban đầu, Ngài bước vào và hoàn thành khóa nhập thất ba năm tại Tu viện Dilyak. Sau đấy, Ngài thực hành trong những giai đoạn dài trong hang động ở thung lũng không người, chẳng hạn Yopkok. Lama Zothar đáng kính nhiều lần kể cho tôi về những dấu hiệu tuyệt vời và diệu kỳ khởi lên từ sự hành trì của Drupon Tenzin trong giai đoạn này. Một lần nữa, Drupon Tenzin trở về Tu viện Dilyak, nơi Ngài đóng vai trò là đạo sư nhập thất (Drupon/ sgrub dpon). Trong nhiều hành giả đạt tới sự vượt thoát khỏi tạo tác mà Ngài dẫn dắt, một trong những vị xuất chúng là Lama Zothar. Sau khi hoàn thành nhiệm vụ là đạo sư nhập thất, Drupon Tenzin Rinpoche đi hành hương theo phong cách của một Yogi thoát khỏi hành động tạo tác, viếng thăm mọi thánh địa chính yếu của Tây Tạng, bao gồm cả Núi Kailash. Ngài hoàn thành chuyến hành hương bằng cách đến Tolung Tsurphu vinh quang. Chúa tể của các Bậc Chiến Thắng, Đức Karmapa, biết rằng Drupon Tenzin sở hữu những trao truyền thù thắng về Đại Thủ Ấn và Sáu Pháp Yoga, đã thỉnh cầu và thọ nhận từ Ngài chỉ dẫn truyền miệng về Sáu Pháp cùng nhiều giáo lý khác. Sau đó, Đức Karmapa đề nghị Ngài sống cố định tại Tsurphu và Ngài đã làm vậy. […] Mặc dù Ngài ở vị trí hiếm có của việc là bậc thầy, người cúng dường những chỉ dẫn sâu xa của Sáu Pháp lên chúa tể của các Bậc Chiến Thắng - Đức Karmapa vinh quang, Rangjung Rigpe Dorje, Ngài không có một chút gì tỏ ra là người vĩ đại và luôn duy trì những cách thức sinh hoạt của một vị Yogi thoát khỏi hành động tạo tác.”

 

Từ Drupon Tenzin Rinpoche, theo lối trao truyền kinh nghiệm, Rinpoche đã thọ nhận một cách hoàn hảo trọn vẹn, những chỉ dẫn dẫn dắt sâu sắc về con đường phương tiện, Sáu Pháp của Naropa. Sáu Pháp là tinh túy giáo lý của Đức Naropa vinh quang về giai đoạn hoàn thiện từ bộ Mật điển cao nhất của Chân ngôn Bí mật. Chúng cũng là thực hành căn bản của Đức Milarepa. Sau khi thọ nhận trao truyền, Rinpoche hoàn thiện thực hành Sáu Pháp Du Già bằng cách thực hành ngày – đêm không gián đoạn trong động thực hành của Gyalwa Gangpa.

Sau đó, Rinpoche thọ nhận chỉ dẫn sâu xa cho Chiết Xuất Tinh Túy Của Không Gian và thực hành chúng trong động của Đức Repa Chenpo. Khi Rinpoche đang nhập thất, Drupon Tenzin hỗ trợ Ngài với lòng đại từ. Hai em gái của Drupon Tenzin, những vị sống ở Tsurphu, cũng hỗ trợ Ngài và đóng vai trò là thị giả hộ thất cho Ngài, cung cấp những nhu yếu cần thiết và v.v.

 

Sau khi thực hành thêm một thời gian, Ngài cúng dường sự chứng ngộ lên Drupon Tenzin Rinpoche và hai vị đã trao đổi với nhau. Điều này mở rộng tri kiến của Rinpoche và tăng cường niềm tin, lòng kính trọng và yêu kính của Ngài dành cho đạo sư. Ngài đã hát lên bài ca hoan hỷ này:

 

Nhờ những chỉ dẫn khẩu truyền của đạo sư từ ái,

Người bất khả phân với đức Kim Cương Trì,

Tôi ăn thức ăn của không gian rỗng rang;

Tôi ngồi trên chiếc ghế của nền tảng rỗng rang.

Đặt niềm tin của tôi vào những vách đá và núi non,

Tôi chẳng cần những chiếc gối hay đồ ngủ:

Nhờ những ban phước của chư Tổ thành tựu giả,

Tôi chẳng bị khuấy động bởi những ý nghĩ về quá khứ;

Tôi không nghĩ về những vấn đề của tương lai.

 

Tôi biết cách nghỉ ngơi trong bản thân tâm-hiện-tại quang minh,

An định và thư giãn trong trạng thái tự nhiên

Chẳng có cách nào tôi có thể báo đáp lòng từ của đạo sư,

Vì thế, tôi phát lời thệ nguyện này:

Trong tất cả các đời tái sinh của mình,

Nguyện hoàn thành trọn vẹn mong muốn của đạo sư.

Nguyện làm lợi lạc cho chúng sinh và giáo lý;

Và nguyện sự cát tường dồi dào tuôn chảy

Để hai sự lợi lạc đều được viên thành!

 

Theo lệnh của Drupon Tenzin Rinpoche, Rinpoche dành bảy đêm tại nghĩa địa Tsurphu, nơi được cho là có đặc tính giống với nghĩa địa Sitavana. Ban đêm, Ngài bí mật dấn thân vào những thực hành Chod, thiền định phân tích về hai kiểu vô ngã, du-già Từ ái và Bi mẫn, và nhiều thiền định khác. Ban ngày, trong động thực hành, Ngài tham gia vào lắng nghe, tư duy và thiền định về tiểu sử của Đức Bà Machik Labdron.

Sau khi hoàn thành khóa nhập thất đó, trong vài tuần tiếp theo, vâng lời đạo sư, Ngài ở lại nghĩa địa Tsurphu; nhưng lần này, Ngài ở gần một dốc lớn trong nghĩa địa, nơi Ngài dựng lều bằng cách lấy y phục từ các xác chết và dùng nó làm vải bạt, rồi nối chúng lại bằng dây thừng vốn dùng để buộc xác chết.

Như thế, Rinpoche đã thực hành Giáo Pháp Chod chân chính, thứ cắt đứt sự lừa gạt của ma quỷ, ngày đêm không gián đoạn. Ngài cắt đứt gốc rễ của chấp ngã và những dấu hiệu xuất sắc của kinh nghiệm khởi lên trong tâm. Ngài cũng cử hành nghi lễ Ganachakra của hành vi du-già sâu xa. Nhờ tất cả những điều này, Ngài tự nhiên được dân chúng địa phương biết đến như là “người đàn ông nghĩa địa” hay “Lama nghĩa địa”. Theo cách này và nhiều cách khác, di sản của Ngài rất giống với câu chuyện cuộc đời của chư thành tựu giả trong quá khứ.

 

Khi ấy, một nhóm chư Ni từ Tu viện Jindo ở Nyemo và Drolma Puk đã đến Tsurphu và lần đầu tiên gặp gỡ Rinpoche. Mặc dù họ thỉnh Rinpoche đến Nyemo, Ngài đã không chấp nhận thỉnh cầu của họ. Một thời gian sau, với sự cho phép của Drupon Tenzin Rinpoche, Ngài quyết định đi hành hương đến Đất Thánh Ấn Độ. Nơi đầu tiên mà Ngài viếng thăm sau khi rời Tsurphu là Nyemo, chính là nơi Tu viện Jindo tọa lạc. Tuy nhiên, Ngài không vào Tu viện; thay vào đó, Ngài dành ba ngày ở nghĩa địa gần đó.

Cuối cùng, sau khi chư Ni bền bỉ khẩn cầu Ngài chấp nhận họ làm đệ tử, Ngài chấp thuận và đến Tu viện, ban cho chư Ni những giáo lý về thực hành sơ khởi của Đại Ấn, nghi quỹ Thành Tựu Cõi Đại Lạc và nhiều Pháp khác.

Sau đấy, Rinpoche du hành đến động thiền định của Đức Berotsana, vua của các dịch giả, và Kugon Chokyi Senge, tâm tử của Đức Bà Machik Labdron. Niềm tin mãnh liệt khởi lên trong tâm Rinpoche và Ngài hát lên những bài ca cầu nguyện, chẳng hạn như dưới đây:

 

Con khẩn cầu chư đạo sư của truyền thừa Chod;

Con khẩn cầu Đức Bà Machik Labkyi Dron;

Con khẩn cầu Kugon Chokyi Senge:

Xin hãy ban phước cho con

để bám chấp với những hoạt động của đời này,

Sự xuất hiện mê lầm của những tập khí,

Bị đảo ngược từ đáy sâu.

 

Tiếp theo, Ngài băng qua cây cầu sắt do thành tựu giả Thangtong Gyalpo xây dựng. Ngài thực hành trong một căn nhà hoang lớn ở Jako, cũng như tại ba nghĩa địa: nghĩa địa Nyangpo, nghĩa địa Khashor Shawari Gong và nghĩa địa Kargung. Tại những nơi này, Rinpoche tìm ra thành trì của thực hành Chod. Nhiều kinh nghiệm diệu kỳ và đau đớn xuất hiện. Rinpoche chuyển hóa tất cả thành sự hỗ trợ giúp tăng cường cho thực hành của mình và khiến trí tuệ chứng ngộ vô ngã, bản tánh chân thật của thực tại, hiển bày thêm. Mức độ chứng ngộ của Ngài tăng thêm; Ngài chiến thắng những hiện tướng mê lầm. Sau đấy, Rinpoche thực hành tại hai thánh địa vĩ đại của Đức Bà Yeshe Tsogyal: động thực hành Jomo Kharak và Joma Drosa.

 

Một lần nữa, Ngài trở về Tu viện Jindo ở Nyemo và tiến hành những chuẩn bị cuối cùng để đến Ấn Độ. Chư Ni nhiều lần thỉnh cầu được đi cùng Ngài trong hành trình này và cuối cùng, Ngài cho phép họ làm vậy. Như thế, vào năm kỷ niệm 2500 năm Đức Phật nhập diệt theo Phật giáo Nguyên Thủy, Rinpoche và đoàn tùy tùng du hành đến bốn thánh địa lớn và những điểm hành hương khác.

Chư Ni (những người hiện nay đã khá lớn tuổi), những người du hành cùng Rinpoche vào thời điểm đó đã kể lại nhiều câu chuyện truyền miệng về những chiến công kỳ diệu mà ngài đã hiển bày trong chuyến hành hương của họ. Để không làm cho tập sách này bị quá dài, tôi sẽ không viết về những điều này ở đây.

Rinpoche và đoàn tùy tùng cuối cùng đã trở về Nyemo an toàn và khỏe mạnh, sau đó Ngài lại lên đường một mình, tiến hành một cuộc nhập thất cô tịch nghiêm ngặt, đơn độc trong hang động có tên là Drolma Puk, một địa điểm linh thiêng được thành tựu giả Nyemowa ban phước.

Đến năm 1959, một sự thay đổi mang tính thời đại đã diễn ra ở Tây Tạng. Vào năm đó, Rinpoche ra thất và với sự hỗ trợ của chư ni đệ tử, ngài du hành qua Bhutan đến Ấn Độ và đến đó như một người tị nạn.

 

  1. Trở Về Với Cái Thấy, Cắt Đứt Công Phu Tạo Tác

 

Trong chín năm tiếp theo, ở Buxa Duar, Ấn Độ, Rinpoche một lần nữa tham gia vào những nghiên cứu về Cái Thấy (Kiến), tiếp tục những lắng nghe, tư duy và thiền định mà Ngài đã từng làm trước kia. Ngài nghiên cứu các bản văn truyền thống của truyền thừa Kagyu, bao gồm ba chủ đề Mật thừa, tức Luận Phật Tánh, Mật điển Hevajra và Thực Tại Sâu Xa Bên Trong, và năm chủ đề Kinh điển. Ngài cũng nghiên cứu mở rộng các bản văn về Kinh, Mật và lô-gic của truyền thống Sakya, Geluk và Nyingma. Theo cách này, Ngài hoàn toàn cắt đứt mọi nghi ngờ và tạo tác ý niệm.

Khi hoàn thành các nghiên cứu, Ngài trải qua kỳ thi tranh luận bằng miệng trước đại chúng hàng nghìn vị trụ trì, Tulku, Lama và chư Tăng từ bốn trường phái chính của Phật giáo Tây Tạng; đại chúng dưới sự chủ trì của Đức Dalai Lama. Sau kỳ thi, Ngài được trao danh hiệu Geshe Lharampa. Rinpoche trở thành đối tượng cho sự tán thán và tôn kính vì tài tranh luận lô-gic và về kiến thức và trí tuệ sắc bén. Danh tiếng của Ngài thực sự lan xa khắp mọi phương.

 

Rinpoche sau đó trở về bên Pháp vương Karmapa thứ 16 và Drupon Tenzin Rinpoche, thọ nhận thêm những chỉ dẫn kinh nghiệm và cúng dường sự chứng ngộ lên chư vị. Ngài cũng thọ quán đảnh, chỉ dẫn và khẩu truyền cho Rinchen Terdzod (Kho Tàng Terma Quý Báu) vĩ đại từ bậc ban quy y Dilgo Khyentse Rinpoche. Đặc biệt, Ngài thọ toàn bộ chỉ dẫn cho Lamrim Yeshe Nyingpo (Các Giai Đoạn Của Con Đường Tinh Túy Trí Tuệ) và nhiều bản văn then chốt khác.

Nói ngắn gọn, trong giai đoạn này, Rinpoche hoàn toàn cắt đứt mọi tạo tác quan niệm nhờ lắng nghe, tư duy, thiền định về Kiến, Thiền và Hạnh trong mọi giai đoạn của chúng.

Năm 31 tuổi, đức đạo sư được Thắng giả thù thắng thứ 16 – Đức Rangjung Rigpe Dorje tôn vinh và công nhận là một Khenpo của truyền thừa Kagyu vinh quang, vô song.

 

  1. Tinh Tấn Làm Lợi Lạc giáo lý và chúng sanh theo lệnh Của Đức Rangjung Rigpe Dorje.

 

Tuân theo những chỉ dẫn của Đức Karmapa thứ 16 cũng như mong ước sâu xa của Thái Hậu Bhutan – Phuntsok Chodron, Rinpoche đến Bhutan, sống vài năm ở Kunga Rabten và Bumthang. Tại những nơi này, Ngài đem lợi lạc lớn lao đến cho nhiều đệ tử chí thành. Năm 1968, trên một ngọn núi ở Kunga Rabten Dzong, Rinpoche thành lập Ni viện Karma Drubde Gon ở một nơi rất hẻo lánh và đẹp đẽ với đầy đủ những đại diện của Tam Bảo,.

Ngài thiết lập chư Ni đã đi cùng Ngài từ Nyemo, khoảng mười ba vị, trong khóa nhập thất ba năm tại một nơi nhập thất ở đó và cẩn thận dẫn dắt họ qua các thực hành.

 

Tuân theo mệnh lệnh từ đức Karmapa thứ 16 vĩ đại, vị đã chỉ dạy Ngài đến phương Tây và tiến hành hoạt động giác ngộ vì lợi lạc của giáo lý và chúng sinh, năm 1977, Rinpoche đã du hành đến châu Âu, bắt đầu ở Pháp, tại trụ xứ Kagyu – Dakpo Kagyu Ling. Khi ấy, Nyoshul Khen Rinpoche cũng ở vùng đó. Hai đạo sư đã thảo luận về kinh nghiệm và chứng ngộ về Trung Đạo, Đại Ấn và Đại Viên Mãn và thấy rằng kinh nghiệm của hai vị khá hòa hợp.

 

Sau đấy, Rinpoche du hành đến Vương Quốc Anh, Đức, Bỉ, Hy Lạp và nhiều nước khác ở châu Âu, giảng dạy ngôn ngữ Tây Tạng và chuyển Pháp luân Kinh thừa và Mật thừa. Nhiều đệ tử châu Âu, những người sau này trở thành dịch giả và tham gia vào nghiên cứu Kinh – Mật mở rộng dưới sự dìu dắt của Ngài, là những đệ tử phương Tây đầu tiên của Ngài.

Trong lúc ở châu Âu, đức đạo sư dâng một câu hỏi lên Đức Karmapa thứ 16: “Trường phái Cựu Dịch Nyingma sở hữu ‘mười ba bản văn vĩ đại’, trường phái Sakya vinh quang có ‘mười tám bản văn rất nổi tiếng’ và Riwo Gadenpa; còn trường phái Geluk, có ‘năm tập kinh văn’. Vậy những bản văn nào là vô cùng quan trọng với truyền thống Kagyu?”. Câu trả lời của Đức Karmapa đến trong một bức thư; trong đó, Đức Karmapa viết rằng, “Với Kagyu, có tám bản văn lớn của Kinh và Mật”.

Như thể bức thư rơi thẳng xuống đỉnh đầu, Rinpoche hết sức để tâm đến lời khuyên từ Đức Karmapa và bắt đầu nhấn mạnh vào những bản văn Kinh và Mật này trong giảng dạy. Ngài hỗ trợ điều này bằng những lời cầu nguyện rằng hoạt động giác ngộ của Giáo Pháp kinh văn và chứng ngộ nói chung, và đặc biệt là Takpo Kagyu vô song, sẽ lan tỏa khắp hư không.

 

Năm 1978, Rinpoche thiết lập Kagyu Thekchen Shedra ở châu Âu và sau đấy, Ngài thành lập Tổ Chức Marpa Châu Âu.

Bắt đầu từ năm 1982 và theo lệnh của Đức Karmapa thứ 16, Rinpoche là trụ trì của Học Viện Nghiên Cứu Phật Giáo Cao Cấp Karma Shri Nalanda tại trụ xứ của Đức Karmapa – Tu viện Rumtek. Ngài ban cho nhiều Khenpo, Tulku và tu sĩ các giáo lý về những bản văn lớn và dẫn dắt họ qua các giai đoạn của thiền chỉ, thiền quán và v.v. trong bối cảnh dấn thân tuần tự vào các thừa của Phật Pháp. Ngài cũng soạn các bản văn về cách tiếp cận độc đáo của truyền thừa Kagyu với những chủ đề Shedra cốt yếu: giới thiệu về các thuật ngữ của lô-gic, phân loại tâm, và phân loại lập luận, cùng với phân tích bình giảng của Ngài.

Những bản văn này là trước tác của chính Ngài, nhưng tóm lược chuẩn xác ý nghĩa dự định của Đại Dương Bản Văn Về Luận Lý của Đức Karmapa thứ 7 – Chodrak Gyatso và Kho Tàng Tri Kiến của Tôn giả Jamgon Kongtrul Lodro Thaye. Chúng trở thành nguồn tài liệu độc đáo trong các Phật học viện Kagyu và tại các học viện và tổ chức Phật giáo quốc tế.

 

Rinpoche cuối cùng du hành đến Hoa Kỳ, Canada và nhiều quốc gia khác ở Bắc và Nam Mỹ. Không một chút thành kiến nào, Ngài giảng dạy Giáo Pháp Kinh thừa và Mật thừa cho đệ tử sùng kính tại trụ xứ Kagyu được biết đến là Karma Triyana Dharmachakra, Vajradhatu, các trung tâm của Kalu Rinpoche đáng kính và cho nhiều nhóm và các tổ chức khác. Đặc biệt, với lòng từ lớn lao, Ngài ban chỉ dẫn cốt tủy của Đại Ấn và Đại Viên Mãn, dẫn dắt đệ tử trong những thiền định này; Ngài tiếp tục dẫn dắt nhiều đệ tử cho đến ngày nay.

Trong lúc ở Bắc Mỹ, Rinpoche hạnh ngộ Chogyam Trungpa Rinpoche và thảo luận về việc truyền bá và hoằng dương giáo lý của Đức Phật ở phương Tây. Nhóm đệ tử Bắc Mỹ của Ngài đã trở nên đông đảo, bao gồm nhiều dịch giả thành thạo. Năm 1994, Ngài thành lập chi nhánh Hoa Kỳ của Tổ Chức Marpa.

 

Rinpoche cũng du hành đến các nước châu Á, như Đài Loan, nơi Ngài giảng dạy về ba thừa. Đặc biệt, Ngài trút cơn mưa cam lồ Giáo Pháp chân chính của Kim Cương thừa Chân ngôn Bí mật, nhờ đó, làm chín muồi tâm thức những đệ tử may mắn. Ở Đài Loan, Ngài thành lập một trung tâm Giáo Pháp tên là Zabsang Shedrub và một chi nhánh của Tổ Chức Marpa. Ngài cũng thành lập các trung tâm thực hành Zabsang Shedrub ở Malaysia và Singapore. Nhờ tất cả những hoạt động này, Ngài truyền bá giáo lý của truyền thừa thực hành khắp mọi phương.

Suốt giai đoạn này, Rinpoche tiếp tục chuyển Pháp luân ở Ấn Độ, Bhutan và Nepal. Ở Bhutan, Ngài thiết lập ba trung tâm nhập thất trong vùng thuộc nơi cư ngụ hoàng gia tại Kunga Rabten: Drolma Choling vào năm 1988, Ngon-ga Choling vào năm 1998 và Kunzang Ngayab Choling vào năm 2001. Sau khi thành lập những trung tâm này, đầy đủ đại diện của Tam Bảo, Ngài dẫn dắt chư Ni, những vị đã thực hành ở đó và vẫn tiếp tục thực hành, thọ nhận sự dẫn dắt của Ngài cho đến ngày nay, về thực hành sơ khởi, thiền định và trì tụng Thành Tựu Cõi Đại Lạc, cùng với thực hành Phowa liên quan, Tâm Kinh, Chod, Konchok Chidu và nhiều phương pháp thực hành Đại Ấn và Đại Viên Mãn khác. Chư Ni vẫn tiếp tục những thực hành này không gián đoạn.

 

Năm 1983, gần Bảo tháp Jarung Khashor ở Boudha, Nepal, Rinpoche bắt đầu những thời khóa giảng dạy cho đệ tử quốc tế, tập trung vào Tạng ngữ và các bản văn của Kinh, Mật và lô-gic. Năm 1986, Ngài thành lập Viện Dịch Thuật Marpa và Ban Dịch Thuật Marpa. Bên cạnh đó, tại trường dịch thuật, Ngài cũng trao nhiều giáo lý hiếm và sâu xa cho những nhóm đệ tử cao cấp và thân cận nhất, đứng đầu là một vài Tulku tài năng nhất. Ngài dạy cho họ theo phong cách trao truyền kinh nghiệm Đại Ấn – Đại Dương Ý Nghĩa Rốt Ráo, Sâu Bên Trong Thực Tại, sáu nhánh du già của Mật điển Kalachakra, Sáu Pháp Du Già của Naropa và những chỉ dẫn truyền miệng khác của con đường giải thoát và phương tiện. Ngài đã ban những giáo lý này một cách đầy đủ, kèm theo những buổi phỏng vấn mà trong đó, đệ tử cúng dường sự chứng ngộ của họ, được trao chỉ dẫn cho các giai đoạn tăng cường và v.v.

Năm 2000, Rinpoche thiết lập một trung tâm nhập thất ở Yolmo Gangra, Nepal, tại Tak Puk Senge Dzong, ‘động hổ, pháo đài sư tử’, địa điểm thực hành của Đức Milarepa. Kể từ đó, chư Ni và đệ tử quốc tế của Rinpoche vẫn tham gia vào thực hành Đại Ấn và v.v tại đó. Năm 2006, gần Bảo tháp Jarung Khashor ở Boudha, Rinpoche thành lập Ni viện Tekchok Ling, đầy đủ đại diện của Tam Bảo, nơi chư Ni tinh tấn lắng nghe, tư duy và thiền định về Giáo Pháp theo đúng cách mà đấng đạo sư đã chỉ dạy.

 

Tóm lại, đức đạo sư là vị trì giữ giáo lý mẫu mực của chư Thắng giả, bằng cách đại diện cho sự hợp nhất của thực hành và nghiên cứu. Ngài đã tham gia vào giải thích, tranh luận và biên soạn mở rộng dựa trên truyền thống kinh văn của Kinh và Mật nói chung và nắm giữ truyền thống hướng dẫn trực tiếp, mang tính kinh nghiệm về thực hành, ban vô vàn chỉ dẫn truyền miệng cho các chúng sinh khác. Theo cách này, Ngài thiết lập vô số đệ tử có đủ phước đức trên con đường chín muồi tâm thức và giải thoát.

 

Nói thêm về hoạt động tôn quý của Ngài, Rinpoche vẫn luôn nhấn mạnh tầm quan trọng của những bài ca chứng ngộ của Đức Milarepa, chẳng hạn Trăm Nghìn Bài Ca, cũng như những bài ca chứng ngộ của tất cả chư Tổ thành tựu giả từ các trường phái trước và sau. Theo đó, Ngài cũng cất lên nhiều bài ca kim cương làm sáng tỏ ý định của chư vị. Ngài cũng tự mình biên soạn nhiều bài ca kim cương cung cấp chỉ dẫn truyền miệng.

Ngài phục hồi truyền thống thực hành liên quan đến Karma Nyingtik [Tâm Yếu Của Đức Karmapa] của Đức Karmapa thứ 3 – Rangjung Dorje và trao truyền những chỉ dẫn cốt tủy kinh nghiệm tương ứng.

Cho đến nay, những đệ tử may mắn từ phương Đông cũng như phương Tây vẫn tiếp tục thực hành và tận hưởng kết quả từ hai trong những đóng góp độc đáo nhất của Ngài: những lời cầu nguyện, bài ca và vũ điệu kim cương về Cứu Độ Mẫu Tara, chúng kể về nguồn gốc của Bà và hệ thống bài tập du già Lujong “rèn luyện và tịnh hóa thân”, hệ thống đặc biệt kết hợp con đường giải thoát và phương tiện, một hệ thống khởi lên từ cõi tâm trí tuệ của chính đạo sư. Ngài soạn Nghi Quỹ Của Đại Ấn – Vũ Điệu Hoan Hỷ Cam Lồ Đại Lạc, một bộ chỉ dẫn được tự nhiên tuyên thuyết, vô cùng sâu xa và quý báu về Đại Ấn tịnh quang, cùng với luận giải của chính Ngài.

Ngài giúp đệ tử trên khắp thế giới có thể hát những bài ca chứng ngộ trên với giai điệu được điều chỉnh bằng ngôn ngữ của chính họ: tiếng Tạng, Anh, Trung… Ngài tăng cường kinh nghiệm lắng nghe, tư duy và thiền định của họ bằng cách khuyến khích họ kết hợp những bài ca này với vũ điệu kim cương. Theo những cách này, với lòng từ lớn lao, Rinpoche noi theo và tiếp tục noi theo một cách hoàn hảo tấm gương cuộc đời chư Tổ vĩ đại của dòng truyền thừa thực hành.

 

Tiểu sử bên ngoài này, được viết ra từ quan điểm của hiện tướng phổ thông của đạo sư vinh quang của tôi, Khenchen Kim Cương Trì, Dechen Rangdrol, chủ yếu dựa trên tiểu sử vĩ đại của Ngài và được bổ sung thêm bằng những thảo luận với một số vị Ni lớn tuổi, những đệ tử ban đầu của đạo sư và với một số đệ tử lớn từ phương Tây của Ngài. Nó được viết lại ở đây theo lệnh của chúa tể của các Bậc Chiến Thắng.

Nhờ sức mạnh của điều này, nguyện tôi và những chúng sinh khác, tất cả những đệ tử của đấng đạo sư, thấy hạt giống sùng mộ và ba kiểu niềm tin ngày càng phát triển cho đến khi bản thân chúng ta có được khả năng nắm giữ di sản kinh nghiệm và chứng ngộ của đấng đạo sư. Đặc biệt, cầu mong nỗ lực này trở thành nhân thúc đẩy cuộc đời trường thọ của Đức Karmapa Orgyen Drodul Trinle Dorje – chúa tể vinh quang của các Đấng Chiến Thắng, và đạo sư tối thắng Khenchen Kim Cương Trì: cầu mong hoạt động giác ngộ của chư vị lan tỏa khắp hư không mười phương!

 

Cuộc đời Ngài là một bản hùng ca về sự giải thoát,

Nó biểu thị chân thực cách thức

Sự xả ly chân chính của Nguyên Thủy thừa,

Lòng Từ bi và Bồ đề tâm của Đại thừa

Và tri kiến linh thiêng,

không gợn mảy may thiên kiến của Kim Cương thừa

Có thể được áp dụng cho tâm thức của một con người.

 

Tịnh quang của thân giác ngộ,

Với những tướng tốt và vẻ đẹp trang nghiêm,

Giai điệu của khẩu giác ngộ,

Dội vang tự nhiên, như tiếng đàn luýt của Pháp tánh,

Và cõi miền của tâm giác ngộ,

Với trí tuệ bổn nguyên không tỳ vết

Chỉ được chứng ngộ nhờ con đường của niềm tin và sùng mộ –

Làm sao chúng có thể được nhận ra theo bất kỳ cách nào khác?

 

Vượt xa khỏi hy vọng và sợ hãi, thoát khỏi sự dối gạt của khái niệm,

Trong mọi đời, nguyện được đạo sư vô song dẫn dắt,

Nhờ đó, con nhanh chóng đạt trạng thái thù thắng của Kim Cương Trì.

 

Tiểu sử này được viết bởi một trong những kẻ tôi tớ của Ngài, người được lòng từ ái vô song của đạo sư trưởng dưỡng, vị được gọi là Dzogchen Ponlop, thường được biết đến là Karma Sungrab Ngedon Tenpay Gyaltsen. Nó được hoàn thành tại Nalanda West (Seattle, Washington) vào năm 2553 Phật lịch. Nguyện cho mọi sự cát tường! Sarva Mangalam!

 

(Dịch sang Anh ngữ dưới sự hướng dẫn của Dzogchen Ponlop Rinpoche và sự hỗ trợ từ Acharya Tashi Wangchuk bởi Tyler Dewar từ Mạng Lưới Dịch Thuật Nitartha, ngày 27/10/2010, Seattle, Washington, Hoa Kỳ.)

Bài viết liên quan