BA PHƯƠNG DIỆN CĂN BẢN CỦA CON ĐƯỜNG - BỐN LUẬN PHẬT GIÁO CỐT LÕI - DALAI LAMA THỨ 14

BA PHƯƠNG DIỆN CĂN BẢN CỦA CON ĐƯỜNG

JE TSONG-KHAPA - BỐN LUẬN PHẬT GIÁO CỐT LÕI

BÌNH GIẢNG BỞI HH. DALAI LAMA THỨ XIV

-------o0o-------

Bản thân Đức Phật đã đạt Giác ngộ nhờ vào sức mạnh của Bồ đề tâm nguyện thanh tịnh của ngài. Tất cả những phẩm tánh và thành tựu tuỳ thuộc vào Động lực Giác ngộ (tâm Bồ đề), do đó, chúng ta cần cầu nguyện để bản thân mình khởi phát một tâm như thế, sâu rộng nhất có thể và rằng nó sẽ luôn luôn tăng trưởng.
BA PHƯƠNG DIỆN CĂN BẢN CỦA CON ĐƯỜNG - BỐN LUẬN PHẬT GIÁO CỐT LÕI - DALAI LAMA THỨ 14

BA PHƯƠNG DIỆN CĂN BẢN CỦA CON ĐƯỜNG

JE TSONG-KHAPA - BỐN LUẬN PHẬT GIÁO CỐT LÕI

BÌNH GIẢNG BỞI HH. DALAI LAMA THỨ XIV

-------o0o-------

Kính ngưỡng các đạo sư tôn quý!

Ta sẽ giải thích như là ta có thể,

Những ý nghĩa tinh tuý của tất cả các giáo lý của Bậc Chiến thắng,

Con đường đã được tất cả con trai tối thượng của Bậc Chiến thắng chỉ ra.

 

Hỡi những người may mắn, hãy lắng nghe với tâm sáng tỏ,

Tất cả những ai không tham đắm trong những dục lạc của luân hồi,

Mà nỗ lực vì một (đời sống) ý nghĩa với những nhàn rỗi và phú bẩm

Hãy hướng tâm con về con đường làm đẹp lòng các Bậc Chiến thắng.

 

Không có tâm buông xả thanh tịnh, không có những phương tiện để bạt trừ

Sức hấp dẫn của những khoái lạc trong đại dương của luân hồi.

Bởi vì sự tham đắm trong luân hồi hoàn toàn trói buộc tất cả chúng sinh,

Nên hãy kiếm tìm tâm buông xả ngay từ ban đầu.

 

Hãy để tâm con làm quen rằng những nhàn rỗi và phú bẩm rất khó tìm thấy,

Và rằng không có thời gian để lãng phí trong đời sống này.

Con đảo ngược những sức quyến rũ của đời sống này.

Do quán tưởng về ảnh hưởng không sai sót của Nghiệp hết lần này tới lần khác

Và những khổ đau của luân hồi,

Con đảo ngược những sức quyến rũ của các đời sống tương lai.

 

Vì đã thiền định nên khi con không sinh khởi thậm chí chỉ trong một khoảnh khắc,

Lòng hâm mộ dành cho sự giàu có của luân hồi,

Mà có một thái độ tìm kiếm giải thoát suốt cả ngày lẫn đêm,

Vào giây phút này, con đã sinh khởi được tâm buông xả.

 

Nếu tâm buông xả này không được kết hợp

Với tâm Bồ đề thanh tịnh,

Nó sẽ không trở thành một nguyên nhân của phúc lạc toàn hảo

Hoặc Bồ đề cao nhất.

Do đó, những người thông thái phải phát khởi Bồ đề tối thượng.

 

Chúng sinh hữu tình bị cuốn đi

Bởi những luồng xoáy của bốn con sông hung dữ,

Bị cột chặt bởi những ràng buộc chặt chẽ của Nghiệp, khó mà tháo gỡ,

Và bị giam cầm trong lồng sắt của việc bám nắm vào một cái tôi độc lập,

Hoàn toàn bị bao bọc trong màn đêm dày đặc của vô minh.

 

Các chúng sinh hữu tình luân hồi vô tận,

Và trong những tái sinh của mình, họ tiếp tục chịu đau đớn

Do ba loại đau khổ gây ra.

Quán tưởng trạng thái này của những mẹ hiền,

Làm sinh khởi tâm Bồ đề tối thượng.

 

Bất cứ ai, thấy bản tánh không lỗi lầm của Nhân Quả,

Của tất cả những hiện tượng luân hồi và vượt thoát

Và tiêu diệt trọn vẹn trạng thái hiểu lầm,

Người ấy đã bước vào con đường làm hài lòng chư Phật.

 

Chừng nào hai sự hiểu biết:

(Bản tánh) không sai lầm của các hiện tướng - sự sinh khởi tương thuộc,

Và tánh Không - sự không xác định của (hiện hữu độc lập),

Xuất hiện như là tách biệt,

Người ấy vẫn chưa chứng ngộ tư tưởng của Muni (Thích Ca Mâu Ni).

 

Khi (hai chứng ngộ) hiện hữu đồng thời, không có sửa sang,

Đơn thuần từ việc thấy biết sự sinh khởi tương thuộc như là không sai sót,

Và, nếu hiểu biết đã chắc chắn về (hiện hữu không sẵn có)

Phá huỷ tất cả những trạng thái hiểu lầm về các đối tượng,

Tại thời điểm ấy, sự phân tích cái thấy (về tánh Không) đã trọn vẹn.

 

Hơn thế nữa, thái cực hiện hữu (chấp đoạn) được tránh bởi các hiện tướng,

Và thái cực không hiện hữu (chấp thường) được tránh bởi tánh Không.

Nếu, (từ lãnh vực) của tánh Không, cách thức sinh khởi,

Của Nhân Quả được biết.

Con sẽ không đắm chìm trong những cái thấy cực đoan.

 

Do đó khi con đã chứng ngộ phù hợp với,

Những tinh tuý của ba phương diện căn bản của con đường,

Hãy tìm nơi vắng vẻ và phát khởi sức mạnh của sự nỗ lực,

Và nhanh chóng thành tựu mục đích cuối cùng, hỡi con trai yêu quý.

Đây là hướng dẫn được Đức Je Tsong-Khapa ban cho học trò là Ngawang Dakpa, một người thân của Đức Vua Gyalrong Tsha-kho.

----o0o----

HH Dalai Lama XIV bình giảng:

Do chúng ta đang có mặt ở đây, một nơi đặc biệt, chúng ta nên có một thái độ hoặc động lực đặc biệt và đó là tâm Bồ đề, đạt Giác ngộ vì lợi lạc của tất cả chúng sinh. Điều này phải hoàn toàn chân thành. Bản thân Đức Phật đã đạt Giác ngộ nhờ vào sức mạnh của Bồ đề tâm nguyện thanh tịnh của ngài. Tất cả những phẩm tánh và thành tựu tuỳ thuộc vào Động lực Giác ngộ (tâm Bồ đề), do đó, chúng ta cần cầu nguyện để bản thân mình khởi phát một tâm như thế, sâu rộng nhất có thể và rằng nó sẽ luôn luôn tăng trưởng.

Trong những ngày qua, chúng ta đã tích tập một số công đức thông qua những giáo lý này. Hãy cùng tiếp tục ngày hôm nay với “Ba Phương diện căn bản của con đường” do Je Tsong-Khapa biên soạn. Ba điều này có nghĩa là tâm buông xả, tâm Bồ đề và cái thấy đúng đắn về tánh Không.

Tâm buông xả dựa trên thái độ mà với nó, chúng ta chuyển tâm mình hoàn toàn khỏi tất cả những mong ước dành cho luân hồi. Thành tựu Giải thoát của chúng ta tuỳ thuộc vào việc có tâm buông xả này. Tâm Bồ đề là thái độ hoặc mong muốn thành tựu Giác ngộ để làm lợi lạc tất cả chúng sinh đang sống. Cái thấy đúng đắn về tánh Không là thấy bản tánh an trụ thật sự của thực tại. Về cái thấy này (hoặc hiểu biết tánh Không, hay thực tại) của sự không có sự hiện hữu nội tại (vô tự tánh - không thật có), nếu nó được giữ bởi một tâm buông xả, nó mang lại Giải thoát. Điều này xảy ra qua việc loại bỏ những che chướng ngăn cản Giải thoát, được gọi là những ảo tưởng giữ chúng ta trong vòng luân hồi hay sinh tử. Nếu hiểu biết về cái thấy đúng đắn về tánh Không này được giữ gìn bởi tâm Bồ đề, nó cũng sẽ loại bỏ những chướng ngại ngăn cản sự Toàn giác, được gọi là những thiên hướng bám chấp vào sự hiện hữu có thật, và bằng cách đó, chúng ta đạt Giác ngộ. Do đó, một cái thấy đúng đắn về tánh Không là yếu tố chính phá huỷ những chướng ngại, và nó được hỗ trợ bởi tâm buông xả hay là cả tâm buông xả và tâm Bồ đề.

Những giáo lý Nguyên Thuỷ yêu cầu có tâm buông xả và cái thấy đúng đắn về tánh Không để đạt mục đích của mình. Đại Thừa thêm vào tâm Bồ đề để loại trừ tất cả những chướng ngại một cách trọn vẹn. Do đó, ba phương diện căn bản của con đường: tâm buông xả, tâm Bồ đề và tánh Không, hợp nhất tất cả những giáo lý Nguyên Thuỷ và Đại Thừa.

Những tantra nổi tiếng của chúng ta, với những chủ đề sâu xa về những thân vi tế, những khí, những kinh mạch và các giọt, xem Ba Phương diện căn bản của con đường này như là nền tảng - tâm buông xả, một nguyện lực tâm Bồ đề vô cùng mạnh mẽ và một hiểu biết trọn vẹn về tánh Không như đức Long Thọ (Nagarjuna) và hai người con tinh thần của ngài đã chỉ dạy. Sau đó, thêm vào đó, chúng ta đặt lòng kiêu hãnh hoặc phẩm hạnh của mình vào tiềm năng của điều mà chúng ta có thể đạt được từ những tâm và thức vi tế. Theo cách này, chúng ta nắm phẩm hạnh của cả một Thân Tướng hoặc một Pháp Thân Trí huệ của một vị Phật hoặc cả hai. Mặc dù chúng ta không thật sự có những thân này tại thời điểm thực hành, nhưng dựa vào nguyện lực mạnh mẽ của tâm Bồ đề để đạt Giác ngộ vì lợi lạc của tất cả chúng sinh đang sống, từ từ, chúng ta trở nên có khả năng thành tựu chúng thông qua những thực hành của việc duy trì phẩm hạnh của những Thân này.

Do đó, ba phương diện căn bản này là cơ sở cho toàn bộ các con đường kinh thừa và mật thừa. Trong bất cứ trường hợp nào, chúng ta phải luôn luôn cố gắng tuân thủ một sự thực hành kết hợp cả trí huệ và các phương tiện, cố gắng giúp đỡ những người khác, tích tập công đức và vân vân.

Bản văn cụ thể này khá ngắn gọn, chỉ có vài câu kệ. Đầu tiên, bản thân tôi đã nghiên cứu nó với Tagtra Rinpoche và sau đó, với những người khác, bao gồm Trijang Dorjechang. Chúng ta cần đặt ra một động lực chính đáng để lắng nghe những giáo lý này. Nếu chúng ta dùng lòng nhân hậu làm động lực, đây là nguồn gốc của tất cả hạnh phúc. Nhưng nếu chúng ta thiếu một tấm lòng như vậy, và thay vào đó là tâm kiêu ngạo, tự phụ và vân vân, điều này chỉ mang lại sự không hạnh phúc và không thoải mái. Những ảnh hưởng trong các đời sau, liệu chúng ta sẽ trở thành một người ôn hoà, có tu dưỡng hay một người thô lỗ, cộc cằn sẽ được thấy trong những hành động của chúng ta trong đời này. Thậm chí nếu chúng ta không chấp nhận sự hiện hữu của các đời sau, thì việc có lòng nhân hậu sẽ mang lại hạnh phúc hoặc là người thô lỗ và cộc cằn sẽ mang lại bất hạnh ngay lúc này.

Điều quan trọng nhất là hành động hàng ngày của chúng ta. Thậm chí nếu không có cái gọi là đời sau, không có hại gì khi là người ôn hoà, điều này có ích cho đời sống hàng ngày của chúng ta. Nếu có các đời sau, thì thậm chí chúng ta sẽ còn làm lợi ích nhiều hơn nữa từ việc là một người nhân nhậu và ôn hoà. Do đó, hãy thân thiện, nhân hậu với người khác và không chỉ nói lý thuyết. Chúng ta phải thực hành như vậy trong các hoàn cảnh thực tế và với những người cụ thể mà chúng ta liên hệ trong đời sống hàng ngày của mình. Đây là tinh tuý của Pháp và nó không khó để tuân theo. Nó không phải là cái gì đó mà chúng ta đi mua trong một cửa hàng, mà giống như nó là một cái gì đó mà bản thân chúng ta thực hành.

Ví dụ như, hãy xem những người Trung Hoa. Họ là những đối tượng chính đáng để cho tâm Đại Bi của chúng ta. Họ không biết rằng cái gì là đúng, cái gì là sai, họ không biết những hệ quả của các hành vi của họ, do đó, chúng ta cần phải cho họ thấy tâm Đại Bi. Bản thân các bạn, tất cả chúng ta cố gắng trở nên nhân hậu và tế nhị. Hãy nhìn những người uống bia, rượu - đây là một thói quen rất xấu. Họ trở nên say xỉn, ồn nào, thô lỗ, cộc cằn và hay phiền nhiễu. Đức Phật nói rằng, như là một hệ quả của việc uống rượu bia, chúng ta thường sẽ làm nhiều điều xấu cả với thân, khẩu và tâm. Do đó, uống rượu bia là không tốt chút nào. Điều tương tự cũng đúng với hút thuốc. Mặc dù nó không bị cấm và những yếu điểm của nó không được nhắc đến một cách cụ thể trong những giáo lý của Đức Phật, nhưng như là chúng ta có thể thấy từ những gì mà các bác sĩ phương Tây nói, nó vô cùng nguy hiểm cho sức khoẻ của chúng ta. Nếu có một lý do cụ thể nào để hút thuốc thì có thể được. Nhưng nếu không có lý do cụ thể nào như trong đa số các trường hợp thì tốt nhất là đừng hút. Tương tự với hít bột và vân vân, không nên dùng những thứ này chút nào. Theo những cách này, bằng cách loại trừ những thói quen chưa được gọt dũa, chúng ta sẽ ngày càng trở nên ôn hoà hơn, tế nhị hơn và có tu dưỡng hơn. Chúng ta càng làm được như vậy thì càng tốt. Nếu chúng ta thấy những quý ông và quý bà khác, chúng ta nên hoan hỉ vui mừng với những ví dụ của họ và cố gắng trở nên ôn hoà và có tu dưỡng như là bản thân chúng ta có thể. Các bạn có hiểu không? Hãy chánh niệm hơn và hơn nữa để là người ôn hoà, có tu dưỡng, đáng yêu và nồng ấm. Hãy nhìn vào những khiếm khuyết của việc làm người thô lỗ, ồn ào, ích kỷ và cộc cằn. Chúng ta phải luôn luôn nhắc nhở bản thân về những điều này. Nếu chúng ta có lòng nhân hậu thì điều này mang lại hạnh phúc, may mắn, sức khoẻ và bình an trong tâm. Điều này giúp tôi rất nhiều trong việc suy nghĩ của chính tôi. Chúng ta đều giống nhau, chúng ta đều muốn hạnh phúc, do đó, tất cả chúng ta cần làm như nhau, sống ôn hoà và nhân hậu.

Hãy nhìn những người đang tới đây từ Tây Tạng. Họ không nói mãi về những khó khăn mà họ đã gặp trong hai mươi năm lạ lùng vừa qua, và nói về chúng ta đáng thương như thế nào và cảm thấy hối tiếc cho bản thân họ. Thay vào đó, họ đến đây, rất quan tâm tới Pháp. Chúng ta, những người Tạng đang sống ở đây, cũng không nên nuôi dưỡng những ác cảm với người Trung Hoa. Chúng ta nên cảm thấy mình may mắn như thế nào khi có cơ hội sống ở Ấn Độ và thực hành Pháp. Tôi biết rằng nhiều người khác đã từng bị áp bức bởi người Trung Hoa và bị giam cầm ở đấy, và nếu không có sự tu tập trong Phật giáo, họ đã hoá điên bởi những thù hận và giận dữ của mình. Do đó, quan trọng nhất là không nổi giận như thế, mà tu dưỡng và hàm dưỡng lòng nhân hậu. Nó sẽ tạo nên một sự khác biệt lớn lao vào thời điểm cái chết đến với chúng ta. Hãy nhìn Hitler. Mặc dù ông ta rất quyền lực khi còn sống, cơn giận làm chủ ông ta và khi chết, ông ta không có hạnh phúc và tuyệt vọng. Ông ấy uống thuốc độc và tự tử. Do đó, quan trọng là sống nhân hậu và ấm áp trong suốt cuộc đời mình để khi chết, chúng ta có thể chết với tâm bình an.

Trong tất cả những nước mà tôi từng tới thăm, tôi giảng giải cùng một điểm này. Cho dù là tôi ở phương Tây, hoặc thậm chí khi tôi tới thăm Liên bang Xô Viết, tôi đã nói với mọi người rằng tất cả cần có lòng nhân hậu, cởi mở hướng về tất cả theo kiểu không có phân nhóm và yêu thương tất cả một cách đồng đều. Bất cứ khi nào tôi đi tới các nơi nhau, tôi thấy những người khác nhau về chủng tộc, màu da, quốc tịch, tôn giáo và tôi nghĩ rằng chúng ta đều là những con người. Nếu chúng ta dành thời gian để suy nghĩ về họ, chúng ta sẽ khám phá ra rằng mọi người đều có những giá trị con người căn bản giống nhau. Mọi người đều muốn có hạnh phúc và không ai muốn đau khổ. Do đó, tất cả chúng ta cần cố gắng sống nhân hậu, tốt bụng. Các bạn có hiểu không? Điều tôi đang muốn nói không khó hiểu, phải không? Các bạn có theo kịp tôi không? Hãy nhân hậu với mọi người. Các bạn tới Bodhgaya (Bồ Đề Đạo Tràng) và thọ nhận các giáo huấn từ Đức Dalai Lama. Đây là lời nhắn nhủ chính của tôi, hãy nhân hậu với mọi người. Do đó, bây giờ, hãy dỏng tai lên như những chú thỏ và lắng nghe giáo huấn “Ba Phương diện căn bản của con đường” của Je Tsong-Khapa.

Ngài sinh ra ở Amdo và đã học với nhiều đạo sư ở các tỉnh của miền trung Tây Tạng ở U-Tzang. Ngài đã học cả kinh và tantra, và đã giác ngộ. Ngài soạn 18 bộ giáo huấn tuyệt hảo, vạch ra những nguồn gốc một cách xa rộng từ những bản văn Ấn Độ và các bình giảng khác nhau. Bản văn cụ thể này là trực tiếp hướng tới một trong những đệ tử thân cận nhất của ngài - Ngawang Dragpa.

Có một sự khác biệt nhỏ trong phong cách giáo huấn của Je Tsong-khapa trong “Ba Phương diện căn bản của con đường này” và trong “Lamrim” hay “Con đường tiệm tiến”. Ở đây, trong “Ba Phương diện căn bản của con đường này”, phần giảng giải về tâm buông xả được chia làm hai. Phần đầu là quay lưng lại với những nỗi ám ảnh của chúng ta trong đời này thông qua việc ghi nhớ tái sinh làm người quý báu và ghi nhớ vô thường, và phần thứ hai là quay lưng lại với nỗi ám ảnh của chúng ta với các đời tương lai qua việc ghi nhớ bản tánh đau khổ của luân hồi. Có một sự nhấn mạnh nhẹ về việc quy y Tam Bảo. Mặt khác, trong “Lamrim”, có thảo luận về ba cấp độ của động lực. Do là người của cấp độ đầu tiên (cơ sở của các cấp độ cao hơn), đầu tiên, hãy phát khởi mong muốn làm lợi ích cho các đời sống tương lai và như vậy, bao gồm những giáo huấn về quy y Tam bảo. Như vậy là có một sự khác biệt nhẹ, đúng không? Hãy cùng bắt đầu bản văn.

“Con quy y vào các đạo sư tôn quý của mình.”

Từ “tôn quý” trong tiếng Tạng có nghĩa là “Jetzun”, có nghĩa là một người đã quay lưng lại với tất cả mọi thứ trong luân hồi và hoàn toàn hướng về Giải thoát. “Đạo sư” có nghĩa là một con người cao thượng theo nghĩa là một ai đó có tâm Bồ đề và hiểu biết về tánh Không, điều này sẽ đưa người ấy tới Giác ngộ. Ở đây, “các đạo sư tôn quý” có nghĩa là các đạo sư của Je Tsong-Khapa, những vị đã dạy ngài “Lamrim” và đặc biệt là vị thầy phi phàm của ngài - Manjushri. 

Tiếp theo là đoạn kệ hứa soạn thảo:

“Ta sẽ cố gắng giải thích, với khả năng tốt nhất của mình, nghĩa cốt lõi của những lời tuyên thuyết trong các bản văn của các vị Phật Tối thắng, con đường được ngợi khen bởi Con cháu thiêng liêng của Đức Phật và con đường vượt thoát dành cho những người may mắn có lòng khát khao Giải thoát.”

“Nghĩa cốt lõi của những lời tuyên thuyết trong các bản văn của các vị Phật Tối thắng” hàm ý tâm buông xả, “con đường được ngợi khen bởi con cháu thiêng liêng của Đức Phật” hoặc các vị Bồ tát, hàm ý tâm Bồ đề, và “con đường vượt thoát dành cho những người may mắn có lòng khát khao Giải thoát” có nghĩa là tánh Không đưa ta tới Giải thoát. Do đó, đã hứa biên soạn, tác giả khẳng định rằng ngài sẽ giải thích Ba Phương diện căn bản của con đường này và “với khả năng tốt nhất của mình” nghĩa là ngài sẽ cố gắng làm vậy theo cách ngắn gọn nhất có thể.

“Hãy lắng nghe với tâm sáng tỏ, Ôi, những người may mắn, những người sẽ dựa vào con đường để làm hài lòng các vị Phật Tối thắng thông qua không tham đắm vào những khoái lạc thế gian và tha thiết làm cho những giải thoát và phú bẩm của đời mình trở nên có ý nghĩa.”

Đây là yêu cầu lắng nghe sâu sắc. Nó thể hiện động lực mà chúng ta cần có khi lắng nghe các giáo huấn này. “Con đường làm hài lòng các vị Phật Tối thắng” là một với không lỗi lầm và là trọn vẹn, không có gì bị bỏ sót. Khi chúng ta tuân theo con đường trọn vẹn, không lỗi lầm, điều này làm hài lòng các vị Phật.

Giải thích về phần thân chính của bản văn được chia làm ba phần - giải thích về tâm buông xả, tâm Bồ đề và cái thấy đúng đắn về tánh Không, ba cấu phần tạo nên các giai đoạn tiệm tiến của hiểu biết. Tâm buông xả của chúng ta với những gì được gọi là tốt đẹp trong luân hồi càng mạnh mẽ thì tâm đại bi của chúng ta dành cho những người khác càng mạnh mẽ. Ví dụ như, tại những ga xe lửa ở Ấn Độ, khi thấy những người đàn ông mù loà, những người bị thiếu chân tay, những người ăn xin, và vân vân, chúng ta dễ dàng phát sinh tâm đại bi dành cho họ. Nhưng nếu chúng ta không có tâm buông xả, thì ví dụ như, khi chúng ta tới một thành phố lớn, thay vì có tâm đại bi, chúng ta chỉ cảm thấy ghen tị với những thứ chúng ta thấy hoặc tự hào vì những gì mà chúng ta có. Mặt khác, nếu chúng ta quen thuộc với tâm buông xả, với ý tưởng rằng những thứ được gọi là tốt đẹp của luân hồi thật ra vô nghĩa như thế nào, thì khi chúng ta tới một nơi như, ví dụ như New York, và thấy tất cả những người ở đấy, tư tưởng đầu tiên của chúng ta, theo bản năng, là cảm thấy đại bi với họ.

Tâm buông xả có hai mặt. Một mặt, với thái độ như vậy, chúng ta coi thường khổ đau của luân hồi, và không thích thú với nó, chúng ta thấy ghê tởm và mong hoàn toàn thoát khỏi nó. Mặt khác, chúng ta đánh giá cao Giải thoát và mong muốn đạt nó. Do đó, thái độ hai mặt này càng mạnh mẽ chừng nào, tâm Bồ đề của chúng ta càng mạnh mẽ chừng ấy, điều này cũng tương tự như hai góc nhìn, lên và xuống. Rồi trên cơ sở đó, nếu chúng ta có cái thấy đúng đắn về tánh Không, chúng ta sẽ có thể đạt Giải thoát và Giác ngộ.

Cái thấy đúng theo nghĩa hai cấp độ của sự thật, theo như Bốn Sự thật Cao quý. Đức Phật, người là chốn nương tựa của chúng ta, đã thuyết Pháp bằng lời nói của mình và đặc biệt là ngài đã dạy về Bốn Sự thật Cao quý và hai Chân lý vốn là không sai lầm, chúng không bao giờ sai.

Do đó, quan trọng là hiểu và chứng ngộ chúng. Với tâm Bồ đề, một sự hiểu về tánh Không sẽ đưa sự Toàn giác tới với chúng ta. Nếu chỉ có tâm buông xả thì sự hiểu ấy sẽ đưa chúng ta tới Giải thoát. Do đó, ở đây, trong bản văn này thảo luận đầu tiên là về tâm buông xả.

“Bởi vì hành động với sự quan tâm sâu sắc dành cho những kết quả khoái lạc của đại dương của kinh nghiệm thế gian trong khi thiếu một tâm buông xả thanh tịnh không phải là phương tiện để (đạt) bình an của Giải thoát, thực tế là bởi vì sự thèm khát những gì của thế gian mà các chúng sinh hoá hiện hoàn toàn bị trói buộc, nên đầu tiên, chúng ta phải đấu tranh để có tâm buông xả.”

Cụm từ “tâm buông xả thanh tịnh” được nhắc đến ở đây. Nó phải thanh tịnh theo nghĩa hoàn toàn không thích thú những vẻ lộng lẫy hay những thứ được gọi là tốt của luân hồi. Nếu chúng ta thiếu tâm buông xả thanh tịnh và hoàn toàn bị ám ảnh bởi những mối quan tâm thế gian, thì không có cách nào để đạt Giải thoát. Nếu chúng ta có khát khao và tham luyến, thì bất kể là chúng ta có nhiều nghiệp tốt như thế nào đi nữa, chúng ta cũng không thể dứt bỏ luân hồi. Do đó, chúng ta phải khởi phát tâm buông xả. Làm thế nào để khởi phát nó?

“Qua việc làm quen rằng không có thời gian để lãng phí trong khi một đời sống giải thoát với nhiều phú bẩm là rất khó tìm thấy, chúng ta sẽ chuyển hướng khỏi những ám ảnh về chỉ đời sống này. Qua việc suy nghĩ nhiều lần về những khổ đau của luân hồi và rằng luật Nhân Quả không bao giờ sai sót, chúng ta sẽ quay lưng lại với nỗi ám ảnh về những đời sống tương lai của mình.”

Chúng ta cần nghĩ về tái sinh làm người quý báu mà chúng ta đang có với những tự do và phú bẩm của nó, và cũng về sự thật rằng chúng ta sẽ mất nó, bởi vì nó vô thường, và cái chết sẽ đến như thế nào. Theo cách này, chúng ta sẽ nhận ra cơ hội mà chúng ta đang có đây quý hiếm như thế nào và làm thế nào mà chúng ta không thể lãng phí một mẩu thời gian nào. Đây là cách chuyển sự quan tâm của chúng ta khỏi việc chỉ có một đời này. Những tự do và phú bẩm và những giáo lý về vô thường và cái chết đã được thảo luận trong những ngày trước đây trong “Ba bảy pháp thực hành Bồ tát”.

Tuy nhiên, về cái chết và vô thường, có nhiều quan điểm khác nhau trong việc nên thiền định về cái nào, ví dụ như là những sự kiện rằng cái chết là chắc chắn, trong khi thời điểm nó sẽ đến lại hoàn toàn không chắc chắn. Cái chết có thể xảy ra tại bất kỳ giây phút nào và ngoại trừ Pháp, không gì có thể giúp ích khi nó đến. Nếu chúng ta không làm gì đó vào lúc này cho cái chết và những đời sống tiếp theo thì điều này sẽ không có ích gì cả. Chúng ta càng suy nghĩ về cái chết như vậy, chúng ta càng bớt bị ám ảnh với chỉ riêng đời sống này.

Tiếp theo, chúng ta cần suy nghĩ về tánh không sai sót của Luật Nhân Quả. Để hiểu nhân quả với tất cả những chi tiết cụ thể nhất của nó là một trong những điều khó nhất, nhưng theo một cách đơn giản thì điều tốt sẽ mang lại điều tốt, điều xấu sẽ mang lại điều xấu. Nghiệp là chắc chắn. Từ những hành động tốt, hạnh phúc là kết quả chắc chắn. Từ những hành động xấu, đau khổ sớm muộn gì cũng sẽ xảy ra. Nếu chúng ta có những nguyên nhân để đau khổ trong dòng tâm của mình, làm sao chúng ta có thể nghỉ ngơi một cách thoả mãn và thoải mái? Nó giống như là một quả bom hẹn giờ, vấn đề chỉ là thời gian, bởi vì nó chắc chắn sẽ nổ tung. Nếu chúng ta không loại bỏ nguyên nhân này, chúng ta sẽ không bao giờ nghỉ ngơi trong bình an. Sau đó, theo cách này, chúng ta phát triển nguyện ước mạnh mẽ loại trừ tất cả những nguyên nhân của đau khổ khi chúng ta suy nghĩ một cách cẩn thận về nhân quả.

Vào những lúc khác nhau, chúng ta kinh nghiệm những khổ đau khác nhau của sinh, lão, bệnh, tử. Bất kể chúng ta sử dụng nhiều thuốc như thế nào, chúng ta không thể chữa trị cho tuổi già và chúng ta không thể ngăn mình không bao giờ bị bệnh. Những nỗi đau khổ của sinh, lão, bệnh, tử có những nguyên nhân của chúng từ thực tế là chúng ta có một thân này để trải qua sinh, lão, bệnh và tử. Thân này là một tập hợp của các uẩn bị ô nhiễm, nói cách khác, chúng ta nhận nó bị ô nhiễm với nghiệp và những mê lầm. Nếu chúng ta không buông xả bản thân mình vì nguyên nhân tối hậu, chúng ta sẽ luôn có đau khổ. Những thân thể của chúng ta là một tập hợp của những lực mâu thuẫn. Ví dụ như hãy xem những sức nóng và lạnh trong thân thể. Nếu chúng ta sốt, chúng ta uống thuốc hạ sốt và nếu chúng ta uống quá nhiều thì chúng ta nhiễm phải thể lạnh của bệnh sốt. Nếu chúng ta uống thuốc để làm ấm nhằm chữa cơn lạnh này, và chúng ta uống nhiều, thì chúng ta vượt các cấp độ và chúng ta lại bị bệnh nhiệt nóng. Chỉ khi chúng ta có một sự cân bằng của các sức nóng và lạnh trong thân thì chúng ta mới có thể khoẻ mạnh một cách tạm thời. Nhưng điều này không bao giờ duy trì lâu. Nhưng nó rất bấp bênh và chỉ một cú xóc nhẹ, sự cân bằng bị đánh đổ. Điều này đã được chỉ ra trong bản văn của Aryadeva có tên là “Chatuhshataka” hoặc là “Bốn trăm câu kệ.” Nó nói rằng thân thể là một cái bình chứa mâu thuẫn, đối kháng các lực qua lại với nhau, và do đó, chỉ có thể mang lại đau khổ.

Chúng ta nghĩ rằng thân này là đẹp, nhưng chúng ta nên mổ xẻ nó trong tâm và nhìn vào từng phần riêng biệt, ví dụ như là đầu, hoặc là một sợi tóc dính với một chút xíu chân tóc ở phần cuối. Hãy nhìn vào một cái tai, một con mắt chỉ bởi chính nó, hãy nhìn một mảnh da, hãy nhìn vào tim, hãy nhìn vào hai lá phổi. Chúng đáng ghê tởm và không có gì xinh đẹp cả. Điều này đúng với cả những thứ đi ra khỏi thân thể như là nước tiểu, phân, mủ, và vân vân. Chúng ta thấy những thứ này khi chúng ta đang đi bộ và chúng ta bịt mũi để bảo vệ mình. Nhưng những vật chất khó chịu này từ đâu ra? Chúng không sinh ra từ mặt đất, chúng xuất phát từ thân thể của chúng ta.

Làm sao mà thân thể của chúng ta có thể sạch sẽ được chứ?! Nó chỉ là một nguồn phát sinh rác thải. Thân thể của chúng ta do trứng và tinh trùng của cha mẹ chúng ta tạo ra, nhưng nếu chúng ta đem những thứ này đặt lên bàn ở trước mặt, và nhìn vào chúng, bất cứ ai cũng sẽ cảm thấy buồn nôn. Nhưng chúng ta bám chặt vào chúng bởi vì chúng là nguồn gốc vật chất của thân này, nhưng bản thân chúng lại đáng buồn nôn. Ví dụ như nếu chúng ta đã sống 40 năm, hãy nghĩ xem tất cả những thức ăn mà chúng ta đã ăn trong bốn mươi năm ấy ở một bên, và tất cả những phân và nước tiểu mà thân thể chúng ta đã tiêu hoá thành ở bên kia. Làm sao mà thân này có thể sạch sẽ khi mà nó làm công việc ấy cơ chứ? Do đó, chúng ta phải loại bỏ tham luyến với thân thể như vậy. Nó đến từ nghiệp và những mê lầm, điều này chỉ mang lại đau khổ mà thôi. Nếu chúng ta làm cạn kiệt hoặc loại trừ nghiệp và những mê lầm thì chúng ta sẽ không bao giờ nhận lấy những uẩn ô nhiễm hay đau khổ. Những mê lầm đến từ mê tín và hiểu lầm, tất cả đều sinh khởi từ sự thiếu hiểu biết về các sự vật như là hiện hữu một cách vốn có. Nếu chúng ta nhận biết rằng mọi thứ thiếu vắng sự hiện hữu vốn có, những mê lầm của chúng ta tan biến và cạn kiệt trong không gian của tánh Không. Do đó, đây là điều mà chúng ta cần.

“Bằng cách làm quen với bản thân theo cách này, khi chúng ta không bao giờ sinh khởi trong tâm, dù chỉ trong một phút giây, mong muốn những thứ tốt đẹp của luân hồi và chúng ta khởi phát thái độ mà với nó, chúng ta làm việc ngày và đêm với lòng hăng say luôn dành cho Giải thoát, đó là lúc chúng ta đã tạo ra tâm buông xả.”

Do đó, chúng ta phải phát triển tâm buông xả. Tiếp theo, chúng ta cần có tâm Bồ đề (động lực Giác ngộ).

“Nhưng bởi vì thậm chí tâm buông xả này, nếu không được duy trì bởi một Động lực Giác ngộ thanh tịnh của tâm Bồ đề thì sẽ không thể trở thành một nguyên nhân cho Phúc lạc tuyệt vời của Giác ngộ tối thượng, những ai hiểu điều này sẽ khởi sinh Động lực Giác ngộ.”

Như đã nói, nếu chúng ta thiếu tâm Bồ đề, chúng ta không thể chứng đắc Giác Ngộ.

- (8) “Bị cuốn trôi bởi những dòng xoáy của bốn con sông hung dữ, giam cầm trong những gông cùm chật hẹp của những hành động tạo nghiệp, khó quay trở lại, bị ném vào một hố làm bằng lưới sắt của việc bám chấp vào những đặc tánh thật có, hoàn toàn bị che lấp trong màn đêm nặng nề của bóng đen vô minh, bị giày vò không ngừng bởi ba loại khổ, đời này sang đời khác trong kinh nghiệm thế gian vô tận - chúng ta nên sinh khởi một Động lực Giác Ngộ bằng cách suy nghĩ về hoàn cảnh của những người mẹ hiền của chúng ta, những người cũng thấy mình trong những hoàn cảnh tương tự.”

“Bị cuốn trôi bởi những dòng xoáy của bốn con sông hung dữ” có nghĩa là bốn đau khổ của sinh, lão, bệnh, tử. Chúng ta bị “giam cầm trong những gông cùm chật hẹp” của những món nợ nghiệp xấu, là một cái gì đó chắc chắn sẽ chín muồi và chúng ta đang trong “một hố làm bằng lưới sắt” của vô minh, và “trong màn đêm nặng nề của bóng đen” của việc không thấy bản tánh của thực tại. Cả những người và hiện tướng có vẻ như là hiện hữu vốn có, nhưng họ không hiện hữu theo cách đó chút nào. Chúng ta là một dòng của những tập hợp luôn thay đổi và cái “Tôi” đơn thuần chỉ là một cái gì đó được dán nhãn vào dòng chảy ấy như là nền tảng của nó. Nhưng bởi vô minh, chúng ta bám chấp vào cái “Tôi”, được dán nhãn vào một đống những hiện tượng luôn thay đổi, và chúng ta tri giác sai lầm nó như là lâu bền, ổn định và có thể tìm thấy một cách sẵn có và thật có. Bóng đen của vô minh này, sau đó khiến cho chúng ta tích tập nhiều món nợ nghiệp xấu, điều này đẩy chúng ta vào một hố làm bằng lưới sắt của nghiệp và chúng ta bị trói chặt trong những gông cùm của nghiệp này và những ảo tưởng của chúng ta. Kết quả là, một cách tự nhiên, chúng ta kinh nghiệm ba loại khổ sau đời sống như được nói ở đây. Đây là những nỗi khổ của khổ, khổ của sự thay đổi và khổ trùm khắp. Bởi đây cũng là hoàn cảnh của tất cả những người mẹ hiền của chúng ta, chúng ta phải giúp đỡ họ bằng việc sinh khởi một Bồ đề tâm nguyện.

Đoạn tiếp theo nói đến tánh Không:

“Thậm chí nếu như chúng ta đã làm quen với tâm buông xả và Bồ đề tâm nguyện nhưng vẫn thiếu tánh giác phân biệt, cái hiểu bản tánh an trụ của thực tại, thì chúng ta sẽ không thể cắt bỏ gốc rễ của sự hiện hữu thế gian của chúng ta. Do đó, chúng ta cần nỗ lực trong các phương tiện để hiểu về sự sinh khởi tương thuộc.”

Ý chính của Je Tsong-Khapa là để tánh Không sinh khởi trong nghĩa của sinh khởi tương thuộc và để sinh khởi tương thuộc xảy ra trong việc hiểu tánh Không. Do đó, chúng ta phải nỗ lực trong các phương tiện hiểu biết tánh Không như là sinh khởi tương thuộc. Làm thế nào để làm vậy?

“Bất kỳ ai đã thấy luật Nhân Quả về tất cả các hiện tướng của luân hồi và Niết Bàn siêu việt là không bao giờ sai lầm, và đã phá bỏ những hỗ trợ duy trì (sự biết) của người ấy (về sự hiện hữu vốn có), bất kể chúng có thể là gì, đã bước vào con đường làm hài lòng các vị Phật.”

Tất cả những hiện tướng của Sinh tử và Niết bàn xảy ra thông qua nhân và quả. Điều này không bao giờ sai lầm. Khi chúng ta hiểu điều này và, thêm vào đó, sự hỗ trợ vững vàng làm cơ sở cho mục đích hướng về sự hiện hữu có thật đã sụp đổ, thì chúng ta bước vào con đường làm đẹp lòng các vị Phật. Khi chúng ta hiểu tánh Không, chúng ta sẽ không còn những sự biết hướng về sự hiện hữu vốn có nữa. Theo cách này, nền tảng để những sự biết sai lầm sinh khởi (sự hỗ trợ làm vững vàng cho chúng là việc bám chấp của chúng ta vào sự hiện hữu vốn có) sẽ rơi vỡ thành từng mảng hoặc biết mất.

“Do đó, chừng nào chúng ta còn có hiện tướng tách biệt của hai sự hiểu biết: [1] các hiện tướng là sinh khởi tương thuộc, không bao giờ sai lầm và [2] tánh Không siêu vượt những sự chắc chắn (của bất kỳ cách thức hiện hữu vốn có nào), chúng ta vẫn chưa hiểu ý định của Đức Thế Tôn.”

Khi chúng ta hiểu tánh Không, chúng ta thấy rằng không có gì mà chúng ta có thể chỉ ngón tay của mình vào và nói rằng đây là vật này. Tất cả mọi thứ là không thể tìm thấy trong sự phân tích tối hậu. Nhưng, mặt khác, chúng ta thấy rằng các sự vật là những hiện tướng đơn thuần. Nhưng nghĩ rằng hai thứ này là những cái thấy thấu suốt không liên quan, hoàn toàn tách biệt - một mặt, các sự vật là không thể tìm thấy, nhưng mặt khác, lại là các hiện tướng - không phải là ý của Đức Phật nói về tánh Không và hai cấp độ của cái thấy. 

“Khi, không trong sự luân phiên nhau, mà như là một thể thống nhất, lòng tin chắc chắn của chúng ta xuất phát từ dấu hiệu đơn thuần của lý duyên khởi không bao giờ sai lầm làm cho tất cả những cách tri giác các đối tượng (như là hiện hữu vốn có) của chúng ta vỡ tan thành từng mảnh, chúng ta đã hoàn tất sự phân tích của cái thấy đúng.”

Sau đó, điều mà chúng ta cần là thấy rằng: bởi vì các sự vật sinh khởi tương thuộc, bởi vì những hiện tướng tuỳ thuộc vào những nguyên nhân và hoàn cảnh để sinh khởi, chúng không hiện hữu vốn có, chúng không có sự hiện hữu độc lập. Sự kiện rằng chúng có thể sinh khởi tương thuộc vào những nguyên nhân và hoàn cảnh là đơn giản bởi vì chúng không hiện hữu một cách độc lập. Do đó, hiểu biết và niềm tin rằng các sự vật là sinh khởi tương thuộc, rằng các sự vật tuỳ thuộc vào nhân quả càng mạnh mẽ và sâu sắc bao nhiêu thì hiểu biết và lòng tin của chúng ta về các sự vật là trống không, không có sự hiện hữu độc lập vốn có càng mạnh mẽ và sâu sắc bấy nhiêu và ngược lại. Để hiểu hai điều này một cách đồng thời trong mối liên hệ như thế này có nghĩa là chúng ta đã hoàn tất sự phân tích đúng đắn về tánh Không.

“Hơn thế nữa, khi chúng ta biết làm thế nào sự kiện hiện tướng loại trừ thái cực của hiện hữu vốn có (chấp thường) và sự kiện tánh Không loại trừ thái cực của hoàn toàn không hiện hữu (chấp đoạn) và làm thế nào tánh Không loé sáng như là nhân quả, chúng ta sẽ không bao giờ còn bị lừa gạt bởi những cái thấy bám nắm vào các thái cực.”

Thường thì chúng ta được giải thích rằng sự kiện về các hiện tướng loại trừ thái cực chấp đoạn, các sự vật không hoàn toàn không hiện hữu bởi vì chúng thật sự có biểu hiện. Và đồng thời sự kiện về tánh Không loại trừ thái cực chấp thường; các sự vật không thật sự hiện hữu bởi chúng không hiện hữu theo cách đó. Nhưng ở đây, chúng ta có một cách đối lập để xác quyết nó. Sự kiện về hiện tướng loại trừ thái cực hiện hữu vốn có (chấp thường). Điều này là bởi vì, để cho các sự vật có thể biểu hiện, chúng phải là vô tự tánh, là không phải đã vốn hiện hữu (vốn có sẵn). Chúng phải là những sinh khởi tương thuộc. Do đó, sự kiện rằng chúng có biểu hiện loại trừ khả năng rằng chúng có thể là vốn đã hiện hữu. Hơn thế nữa, sự kiện về tánh Không loại trừ thái cực của sự hiện hữu hoàn toàn (chấp có). Sự kiện rằng một điều gì đó không sẵn có có nghĩa là nó có thể biểu hiện do bởi sự sinh khởi tương thuộc và rằng nó không thể hoàn toàn không hiện hữu. Do đó, sự kiện về tánh Không loại trừ thái cực hoàn toàn không hiện hữu (chấp đoạn). Đây là phương cách vô cùng đặc biệt của Je Tsong-Khapa và nó phù hợp với những luận bình giảng của Choney Rinpoche trong “Tán thán sự Sinh khởi Tương thuộc”. Do đó, hiểu biết này về các sự vật không hiện hữu vốn có bởi vì chúng là những sinh khởi tương thuộc, và rằng các sự vật là những sinh khởi tương thuộc bởi chúng không có hiện hữu vốn có ngăn chúng ta không rơi vào hai thái cực của chấp thường và chấp đoạn.

Tiếp theo là giáo huấn thực hành:

Khi bản thân chúng ta đã có một sự thấu suốt về những điểm trọng yếu của ba phương diện căn bản của con đường, thì sau đó, chúng ta cần dựa vào sự vắng vẻ và bằng cách sinh khởi sức mạnh từ sự nỗ lực hoan hỉ, nhanh chóng chứng đắc mục đích từ xa xưa của chúng ta, hỡi con trai của ta.”

Khi chúng ta đã đạt trí huệ thấu suốt về tâm buông xả, tâm Bồ đề và tánh Không, thông qua sức mạnh của việc lắng nghe các giáo lý đúng đắn về chúng và sau đó, nghĩ tưởng về và phân tích chúng cho tới khi chúng ta xác quyết vào nghĩa của chúng, thì chúng ta cần sống ở nơi vắng vẻ và dành trọn vẹn bản thân cho việc thiền định về chúng và chứng ngộ chúng. Đây là điều chúng ta nên làm với những nỗ lực hoan hỷ lớn lao như những đạo sư nổi tiếng trong quá khứ đã làm, ví dụ như Milarepa, Gyalwa Ensapa và các con trai tinh thần của ngài, Khendup Sangyay và vân vân. Sau đó, chúng ta có thể đạt mục tiêu xa xưa của Giác Ngộ. “Con trai ta” ở đây có nghĩa là đệ tử thân cận của Je Tsong-Khapa - Ngawang Dragpa, người mà chúng ta đã nói đến trước đây.

Điều này kết thúc bình giảng ngắn về “Ba Phương diện căn bản của con đường”. Đây là một bản văn rất quan trọng và đã bao gồm trong nó tinh tuý của kinh trọn vẹn và cốt lõi của những con đường tantra. Những giáo lý về tánh Không hơi khó, phải không? Trừ khi chúng ta đã rất quen thuộc với những thuật ngữ, khi nói về cái thấy đúng đắn, hai sự thật, tánh Không và vân vân, nó có thể khó hiểu và lầm lẫn. Có những phương cách đặc biệt để xác định và xác quyết những thuật ngữ này trong bốn trường phái Ấn Độ về những nguyên lý triết học của các kinh và cũng trong bốn lớp của tantra. Đồng thời có một cách khác để xác định chúng trong những truyền thống Phật giáo Tây Tạng khác theo những nội dung và hệ thống của riêng chúng. Chúng ta cần cố gắng hiểu tất cả để biết cách áp dụng của các thuật ngữ tuỳ theo nội dung của chúng và không bị sai lạc. Chỉ quen thuộc với một hệ thống và sau đó, phê phán những hệ thống khác chỉ bởi vì chúng khác lạ và không hiểu chúng theo những thuật ngữ của riêng chúng là vô cùng thiếu tính xây dựng. Như đã nói trong “Vòng hoa quý báu” cũng như trong “Nhập Bồ tát Hạnh”, trong những khoảnh khắc như vậy, tốt nhất là duy trì sự không khác biệt và giữ yên lặng, không nói gì.

Thậm chí trong những giáo lý của một truyền thống, ví dụ như là Gelug, có sự xác quyết về sự hiểu biết tánh Không tuỳ theo kinh và tuỳ theo tantra. Không có sự khác biệt liên quan tới đối tượng ở cấp vi tế, tánh Không, ở cả trong kinh và tantra. Sự khác biệt đã được xác quyết là về cái tâm hiểu tánh Không. Hơn thế nữa, trong kinh và tantra, có những định nghĩa và giải thích khác nhau về những sự thật tối hậu và quy ước và cách thiền định về cả hai sự thật này. Thậm chí tại cấp độ anuttarayago của tantra, có những hệ thống khác nhau với những sự khác biệt của chúng. Ví dụ như có những phương pháp được phác thảo trong Guhyasamaja, khá khác biệt khỏi những phương pháp trong những giáo lý Kalachakra. Đồng thời, chúng ta tìm thấy những khác biệt theo những cách phân tích và thiền định theo nghi thức. Nếu chúng ta chưa nghiên cứu gì về những hệ thống này, chúng ta sẽ trở nên vô cùng rối rắm.

Nói ngắn gọn, nếu chúng ta không biết chút nào về một hệ thống cụ thể, chúng ta không nên nói điều gì về nó và chắc chắn không nên đánh giá nó. Chỉ trên một nền tảng không phân tách, chúng ta mới có thể trân trọng của những giáo lý của Đức Phật một cách trọn vẹn.

-------o0o-------

Trích: “Bốn Luận Phật giáo cốt lõi” - Je Tsong-Khapa

Bình giảng bởi HH. Dalai Lama thứ XIV

(Tsepak Rigzin dịch sang tiếng Anh.

Hoàng Lan dịch từ tiếng Anh sang tiếng Việt)

Ảnh: Dalai Lama thứ XIV - Nguồn internet

Bài viết liên quan