CĂN TAI VIÊN THÔNG HƠN HẾT - KINH LĂNG NGHIÊM-HÀNH GIẢI - ĐƯƠNG ĐẠO

CĂN TAI VIÊN THÔNG HƠN HẾT

KINH LĂNG NGHIÊM - HÀNH GIẢI

ĐƯƠNG ĐẠO

-----oo0oo-----

Tánh nghe ấy thường trụ bất động, không phải vì không có tiếng mà diệt, không phải vì có tiếng mà sanh. Trực tiếp thấy biết, chứng ngộ điều này tức là biết tánh nghe không sanh không diệt thì thoát khỏi sanh tử luân hồi sanh diệt.
CĂN TAI VIÊN THÔNG HƠN HẾT - KINH LĂNG NGHIÊM-HÀNH GIẢI - ĐƯƠNG ĐẠO

 

Con nay bạch Thế Tôn

Phật ra cõi Ta Bà

Phương này chân giáo thể

Thanh tịnh tại nghe thanh

Muốn được Tam ma đề

Thật do nghe mà nhập.

 

Ở các cõi Phật khác, có cõi dùng ánh sáng để chỉ bày thật tướng, có cõi dùng hương thơm, có cõi dùng cây Bồ đề…tùy theo duyên nghiệp công đức của cõi đó. Riêng ở cõi Ta Bà này, âm thanh là chủ đạo. Chúng ta cứ xem trong cuộc sống hằng ngày, hầu như cuộc sống là âm thanh. Chúng ta vẫn thường sống với căn tai. Căn tai hiện diện thường trực: khi chúng ta nói chúng ta vẫn nghe. Khi nhìn, vẫn nghe; khi ngửi, vẫn nghe; khi nếm, vẫn nghe; khi đi đứng, vẫn nghe; khi suy nghĩ, vẫn nghe. Căn tai luôn luôn có mặt dù cho các căn kia đang hoạt động, do đó mở nút hay xoay căn tai là dễ nhất.

Mở được, xoay được thì đó là tam muội, thanh tịnh, bất biến, đó là tánh viên thông vốn sẳn chưa hề cách lìa chúng sanh một sát na, một cọng tóc.

 

Lìa khổ được giải thoát

Lành thay Quán Thế Âm

Trong hằng sa số kiếp

Vào cõi Phật vi trần

Được lực đại tự tại

Vô úy thí chúng sanh

Diệu âm, Quán Thế Âm

Phạm âm, hải triều âm

Cứu thế, an lành thảy

Xuất thế, hằng thường trụ

 

Đoạn kệ này tán thán Đức Quán Thế Âm. Quán Thế Âm trở thành vị thành tựu viên thông cái nghe, do đó danh hiệu ngài cũng chính là tánh nghe.

“Viên mãn tánh nghe” nên “lìa khổ, được giải thoát”, là đoạn đứt biến dịch sanh tử và phần đoạn sanh tử. Do đó được lực đại tự tại, thường trụ trong Tam muội Kim cương như huyễn nên “xuất thế hằng thường trụ”, mà lại ở trong thế gian “cứu thế an lành thảy”.

 

Con nay bạch Như Lai

Như Quán Âm đã nói

Ví như người ở yên

Mười phương đều đánh trống

Mười chốn đồng thời nghe

Đó là chân viên thông.

 

Đây là điều ai cũng chứng nghiệm hàng ngày. Nhưng phải thiền định thiền quán lâu ngày mới nhận ra sự thật hiển nhiên này.

“Mười phương đều đánh trống, mười chốn đồng thời nghe”: nơi nào có tiếng thì khắp nơi đều nghe, tánh nghe có mặt ở khắp cả, không tùy thuộc vào nơi nào âm thanh khởi, cũng không tùy thuộc chỗ nào đứng nghe.

Thật sự ngộ ra được điều này và không bao giờ quên là bắt đầu vào tánh viên thông. Từ khi thật biết chân viên thông này rồi bèn niệm niệm “huân tu tánh nghe thuần sáng, sáng khắp pháp giới” thì mới mong hoàn toàn vào Tam muội Kim cương như huyễn, được đại tự tại.

 

Mắt không thấy ngoài (ngăn) che

Miệng, mũi cũng như vậy

Thân có hợp mới biết

Ý loạn không mối manh.

Cách vách vẫn nghe tiếng

Xa gần đều nghe được

Năm căn so không bằng

Đó là thật viên thông.

 

So sánh với năm căn kia thì cái nghe có ưu thế hơn:

  • Cách vách, xa gần đều nghe: tầm hoạt động rộng xa hơn.
  • Cái nghe dễ trung tính hơn, ít dính chấp hơn so với cái thấy.
  • Quan trọng nhất là sự thường trực của cái nghe, có tiếng thì nghe, không có tiếng vẫn nghe, khi các giác quan kia hoạt động vẫn nghe. Chính sự thường trực này khiến dễ tương ưng với tánh nghe thanh tịnh tương tục không gián đoạn, nghĩa là thường trụ. Cho nên tu cái đang nghe, đó là huân tu tánh nghe.

 

Âm thanh có động tĩnh     
Trong cái nghe (thành) có, không

 Không tiếng gọi (là) không nghe

Chẳng phải không tánh nghe.

Không tiếng, đã không diệt

Có tiếng, cũng không sanh

Sanh diệt đều trọn lìa

Đó là thường chân thật.

 

Đoạn này chỉ thẳng tánh nghe nơi đời sống bình thường, trong trạng thái thức, tuy nhiên, để thấu rõ nó phải cần Chỉ Quán lâu ngày thì lúc nào đó tánh nghe mới hiện tiền, mới là cái gì cụ thể hiện thực được.

Âm thanh có khi động, khi tĩnh, trong cái nghe nhận biết khi có tiếng khi không tiếng. Nhưng không có tiếng thì không nghe cái có tiếng, chứ vẫn nghe cái không có tiếng. Tánh nghe vẫn thường hằng tại đây và bây giờ. Có tiếng, đó là tánh nghe. Không có tiếng, đó là tánh nghe. Không thể nào thoát ngoài tánh nghe được.

Cũng vẫn cái nghe này mà chạy theo có tiếng và không có tiếng thì sa vào thế giới sanh diệt, vào trần tướng. Còn chính cái nghe này mà tự trụ trong bản vị bất động của nó, thường hằng nghe cả có tiếng và không có tiếng, đây là tánh nghe, hay chính xác hơn, bắt đầu đi vào tánh nghe để cuối cùng là sự viên thông vốn sẳn của tánh nghe.

Đơn giản nếu ngay bây giờ mà nghe xuyên suốt qua âm thanh trần tướng, xuyên suốt qua hư không vắng lặng, thì đây là tánh nghe không lúc nào không nghe. Rồi sống trong tánh nghe, nghĩa là huân tu tánh nghe cho đến khi viên mãn.

Tánh nghe ấy thường trụ bất động, không phải vì không có tiếng mà diệt, không phải vì có tiếng mà sanh. Trực tiếp thấy biết, chứng ngộ điều này tức là biết tánh nghe không sanh không diệt thì thoát khỏi sanh tử luân hồi sanh diệt.

Khi đã thật sự thấy biết tánh nghe không sanh không diệt thì thường xuyên an trụ trong tánh nghe ấy, chuyển hóa, nghĩa là đưa các tướng sanh diệt trở về với bản tánh không sanh không diệt của chúng. Đến lúc “sanh diệt đều trọn lìa”, nghĩa là không còn có chút tướng sanh diệt nào nữa, tất cả chỉ là cái không sanh không diệt: ‘‘không tiếng đã không diệt, có tiếng cũng không sanh’’. Tướng sanh diệt tức là tánh không sanh không diệt. Nói cách khác, tánh vốn không sanh không diệt mà tướng cũng không sanh không diệt.

Đây là trạng thái “thường chân thật”, hay là Tam muội Kim cương như huyễn do huân tu tánh nghe mà thành tựu.

 

Dầu cho trong mộng tưởng

Không nghĩ mà thành không

Tánh nghe ngoài suy nghĩ

Thân tâm không đến được.

 

Tánh nghe hiện hữu siêu vượt mọi trạng thái của thân tâm, khi ngủ mộng, khi thức, khi suy nghĩ và khi không suy nghĩ. Nhưng siêu vượt mọi trạng thái, mọi hoạt động nhưng trong trạng thái nào hoạt động nào cũng có nó, vì nó là nền tảng cho tất cả, tam muội vốn sẳn từ đó mọi trạng thái tâm xuất sanh.

Hãy tìm thấy nó để được giải thoát khi ở đâu cũng có nó, lúc nào cũng có nó, trạng thái nào cũng có nó.

 

Nay cõi Ta Bà này

Thanh luận được tuyên giảng

Chúng sanh mê gốc nghe

Theo thanh nên lưu chuyển.

A Nan tuy nhớ rõ

Chẳng khỏi lạc niệm tà

Há chẳng tùy chỗ đắm

Xoay dòng thoát hư vọng.

 

Nhờ sự luận giải bằng âm thanh lời nói mà tánh nghe được chỉ bày. Tuy nhiên khi mê gốc nghe mà chạy theo tiếng thì bị lưu chuyển, đây là trường hợp ngài A Nan. Ngài tuy nhớ rõ thanh luận nhưng bỏ quên gốc nghe, sau này lại đắc A La Hán vô lậu ngài mới nói lại những lời của Đức Phật để thành Kinh. Khi ấy, mở đầu Kinh, ngài nói “Tôi nghe như vầy…”, bấy giờ thanh luận đã được nghe mới từ tánh nghe lưu xuất.

Đắc vô lậu bởi vì không còn bị trôi nổi chìm đắm theo âm thanh, không còn bị lạc niệm tà theo sự quyến rũ của Ma Đăng Già, mà đã “xoay dòng cái nghe thoát khỏi hư vọng”, an trụ trong Tam ma địa.

Đây chỉ nói đến thanh luận của Phật giáo, còn thanh luận của đời thì càng làm người ta mê mờ lạc xa hơn nữa.

 

A Nan, ông nghe kỹ

Tôi nương oai lực Phật

Tuyên nói chân Tam muội

Kim cương vương như huyễn

Phật mẫu, chẳng nghĩ bàn.

Ông tuy nghe mọi pháp

Bí mật của chư Phật

Trước chẳng trừ dục lậu

Chứa nghe thành lầm lỗi.

Dùng nghe, giữ pháp Phật

Sao chẳng nghe cái tự nghe?

 

Ngài Văn Thù nương nơi oai lực Phật tuyên nói Tam muội Kim cương Như huyễn, là Mẹ sanh ra chư Phật. Đây cũng chính là Pháp thân tánh nghe của tất cả chư Phật.

Sở dĩ ngài A Nan không đạt được Tam muội là sự an toàn, giải thoát vĩnh viễn này là do “trước chẳng trừ dục lậu” mà chỉ “dùng nghe, giữ pháp Phật, chứa sự nghe nhiềuthành lầm lỗi”. Tu hành cần những bước sơ bộ, những bước làm quen với con đường, để bước vào thực hành đích thực chứ chứa nhiều cái nghe, giữ nhớ nhiều pháp Phật cũng chẳng ích gì cho giải thoát. Trước cần phải trừ dục lậu nghĩa là giữ giới để được thanh tịnh. Tiến lên nữa, giữ giới tâm là Định. Từ đây mới bừng phát ra Huệ, nghĩa là cái thấy biết thực sự tánh nghe. Nhờ cái thấy biết thanh tịnh của Huệ mới quét sạch dục lậu.

Chân Tam muội này xưa nay vẫn hiện tiền trước mắt, chỉ vì không chuẩn bị đủ, không được chỉ dạy và không được tinh tấn huân tu mà chẳng thể nghiệm được.

“Sao chẳng nghe cái tự nghe”, đây là pháp bí mật, nhưng cũng quá hiển nhiên, và là mẹ của chư Phật. Khi đã phát khởi đủ niềm tin, thì chỉ Chỉ, Quán, Thiền một câu này, có ngày ắt sẽ bắt gặp cái tự nghe này. Nó cụ thể hơn tất cả những cái cụ thể, vì nó là mẹ của tất cả cái cụ thể. Nó hiện thực hơn tất cả những cái hiện thực, vì nó là mẹ của tất cả những cái hiện thực. Khi ấy cái gì chẳng phải là Nó?

 

Tánh nghe chẳng tự nhiên sanh

Nhân thanh có danh tự

Xoay cái nghe thoát khỏi tiếng

Giải thoát đâu có danh.

Một căn đã về nguồn

Sáu căn thành giải thoát.
 

Cái tự nghe này là tánh nghe hay tánh giác. “Tánh nghe chẳng tự nhiên sanh” vì nó là vô sanh, “ngoài suy nghĩ, thân tâm không đến được”. Tánh nghe vô sanh ấy chỉ nhân âm thanh mà hiện diện với con người nên có danh tự là tánh nghe, chứ nó chẳng dính dáng gì đến sự có hay không có âm thanh, giải thoát hay chẳng giải thoát.

Với con người “khi xoay cái nghe thoát khỏi tiếng” thì ngay đó là nó, ngay đó gọi là giải thoát, chứ nó không có vấn đề giải thoát vì đã từng bị trói buộc bởi tiếng hay không tiếng đâu. Với con người khi “một căn đã về nguồn” thì “sáu căn thành giải thoát”. Nhưng với tánh nghe vốn giải thoát thì khi một căn chưa về nguồn, đó cũng là giải thoát, vì nó không có nguồn. Nó đã từng dính một âm thanh nào đâu mà bảo là cần giải thoát.

 

Thấy, nghe, như lòa, huyễn

Ba cõi như không hoa

Xoay nghe, gốc lòa trừ

Trần tiêu, Giác viên tịnh

Tịnh tột, quang thông suốt

Lặng chiếu trùm hư không.

 

Thấy nghe của con người là do vọng thấy biệt nghiệp và vọng thấy đồng phận, do bệnh phân biệt không nhân gì mà có, nên như lòa, như huyễn. Ba cõi sanh tử do gốc bệnh phân biệt thành lòa mà có nhưng cũng chẳng nhân vào đâu. Như trước đã nói, do mắt mỏi mệt mà thấy có hoa sanh ra giữa hư không, do tai mỏi mệt mà bám theo phân biệt các âm thanh mà không biết cội nguồn vô sanh của chúng. Ba cõi chỉ là quên mất nguồn tánh vô sanh mà thành như huyễn mỏi mệt.

Muốn thoát khỏi ba cõi không hoa này thì xoay cái thấy cái nghe về cội nguồn vô sanh của chúng. Khi ấy không những tự mình thoát khỏi ba cõi mà còn thoát khỏi những khổ đau của chúng sanh ba cõi. Khi thấy khổ đau, nghiệp báo của chúng sanh là không thật thì mới có can đảm ở lại nơi này mà cứu độ chúng sanh. Sự cứu độ lúc này là cứu độ từ nhân, từ gốc: mọi khổ đau của chúng sanh từ gốc lòa của chúng sanh mà có. Chính vì thấy chúng sanh hạnh phúc và khổ đau đều do gốc lòa mà có thì đại bi này mới hoàn toàn chân thật và không rời đại trí được.

Đây là công năng của Như huyễn trong Tam muội Kim cương Như Huyễn.

Tánh viên thông thì “lặng chiếu (tịch chiếu) trùm hư không”. Trong Đại định Kim cương Như huyễn và cũng là tánh giác viên thông này thì Kim cương là tịch, là lặng, là chân Chỉ, còn Như huyễn là chiếu, là chân Quán. Lặng và chiếu là đồng thời, không hề lìa nhau. Kim cương và Như huyễn là đồng thời, không hề lìa nhau. Đây chính là tánh viên thông. Chỉ cần xoay lại thì tánh viên thông này hiện tiền, vì từ vô thủy đến nay chúng ta vẫn sống trong nó mà không tin, không biết.

‘‘Xoay nghe gốc lòa trừ’’. Xoay nghe, liền tiếp xúc với thực tại Không, Vô tướng, Vô niệm, Vô trụ. Xoay nghe, đây là thiền định. Rồi an trụ trong thiền định đó thì đây là chánh định, tam muội. Tam muội này cũng chính là tánh nghe thường trụ vì không có bắt đầu không có chấm dứt.

 

Xem (quán) trở lại thế gian

Giống như việc trong mộng

Ma Đăng Già trong mộng

Ai bắt được hình ông?

Như huyễn sư khéo trong đời

Huyễn làm các nam nữ

Tuy thấy các căn động

Cốt do một máy giật

Máy nghỉ đều lặng yên

Các huyễn thành vô tánh.

 

Khi lọt được vào Tam muội Kim cương Như huyễn, vào tánh giác viên thông, trụ được ở trong đó, thì xem trở lại thế gian, tất cả đều như mộng, như huyễn. Như mộng như huyễn thì không còn gì để tác động và trói buộc mình được. Thực thấy ba cõi đều như mộng như huyễn thì đó là giải thoát, đó là tự do, bởi vì lúc ấy không ai có thể khoác cho mình cái áo nào cả, dù là áo chúng sanh hay là áo ngộ đạo.

Ba cõi như mộng như huyễn vì đó là trò ảo thuật của huyễn sư vô minh phân biệt chấp trước lâu đời. Thấy có người qua kẻ lại, người lên cao người rớt thấp, người giàu sang người nghèo hèn…tất cả là trò huyễn thuật do một bộ máy dật dây điều khiển, rồi hoa mắt mà lăn lộn, đấu tranh, trôi nổi.

Xoay các trò huyễn thuật này trở về nguồn tánh vô sanh thì “máy nghỉ đều lặng yên, các huyễn thành vô tánh”. Đây là Tam muội Kim cương Như huyễn.

 

Sáu căn cũng như thế

Vốn y một tinh minh

Phân thành sáu hòa hợp

Một chỗ đã về nghỉ

Sáu dụng đều chẳng thành

Ngay đó trần cấu tiêu

Thành viên minh tịnh diệu

Trần còn là Hữu học

Sáng tột tức Như Lai.

 

Sáu căn vốn y vào một tánh tinh minh, thuần sáng tỏ, trong ngoài đều sáng suốt. Tánh tinh minh thì căn cũng tinh minh, thức và trần đều tinh minh, như gương sáng thì tất cả các bóng trong ấy đều là gương sáng.

Ngay nơi các căn “sáu hòa hợp” này mà nhìn ra được nguồn của chúng “vốn là một tinh minh”, vốn cùng một nguồn ánh sáng, đó là chỗ bắt đầu của huân tu tánh thấy.

Sở dĩ có trần cấu, có các tướng “lấn ép nhau” là do bộ máy vô minh phân biệt chấp trước mà thành loạn động.  Xoay các tướng về tánh vô sanh thì tất cả đều vô sanh, tịch tịnh, tròn sáng.

Sáu căn vốn rỗng rang thanh tịnh, không có chấp tướng rồi chạy theo tướng, không có trần cấu. Khi xoay được một căn trở về nguồn tánh tinh minh, tất cả sáu căn thành mở thoát, không còn làm cái dụng cho vô minh phân biệt, tất cả đều “về nghỉ” trong tánh tinh minh thanh tịnh. Bấy giờ tất cả tướng đều là tánh, trần cấu tiêu tan như chưa từng có.

Tất cả xưa nay vốn là Viên minh tịnh diệu, không có tánh tướng phân chia nào cả. Chỉ vì một niệm bất giác, khởi lên năng sở, từ đó phân chia rối bời. Cho nên “chuyển vật tức đồng Như Lai”, chuyển được các vật sai biệt về Như Lai tạng diệu chân như tánh, xoay cái nghe cái thấy về nguồn tánh là Một Bảo giác viên dung thanh tịnh, Một Phật tâm, thì đây là con đường trở lại Phật tánh vốn đã viên thành xưa nay của mình.

Trên con đường trở lại ấy, trên cái đương xứ đương niệm vốn đã thành Phật ấy, sự phân biệt, các cấp bậc tu chứng được xác định bằng thanh tịnh nhiều hay ít, trần cấu hư vọng còn nhiều hay ít: “Trần còn là Hữu học, sáng tột tức Như Lai”.

 

Đại chúng và A Nan!

Xoay cơ nghe điên đảo

Xoay nghe, nghe tự tánh

Tánh thành: vô thượng đạo.

Viên thông thật như vậy

Đây một đường Niết bàn

Của hằng sa chư Phật

Chư Như Lai quá khứ

Đã thành tựu môn này

Các Bồ tát hiện tại

Nay đều vào viên minh

Người vị lai tu học

Hãy y pháp như thế

Con cũng trong ấy chứng

Chẳng riêng Quán Thế Âm.

 

‘‘Đại chúng và A Nan! (hãy) xoay cơ nghe điên đảo…’’, sự kêu gọi thức tỉnh trực tiếp tức khắc để xoay về.

Viên thông là xoay cái nghe trở lại nghe tự tánh (phản văn, văn tự tánh) và khi sự chứng nghiệm tự tánh hoàn thành viên mãn, thì đây là Giác ngộ, là Vô thượng đạo. Đây là một đường đến viên thông, tự tâm Niết bàn, Pháp thân thanh tịnh bổn nhiên, toàn khắp pháp giới của tất cả các bậc giác ngộ, tất cả các Bồ tát quá khứ, hiện tại, vị lai.

Khi có được xác tín như vậy người tu học chúng ta niệm niệm đều xoay cái nghe trở lại nghe tự tánh. Xoay nghe, đó chính là tự tánh, rỗng suốt tất cả không gian thời gian. Một niệm xoay về là một niệm chứng ngộ, niệm niệm xoay về là niệm niệm chứng ngộ. Một nhân xoay về là một quả chứng ngộ. Đây là nguyên lý chung cho chư Phật, Bồ tát và chúng sanh. Còn nhanh hay chậm, toàn phần hay ít phần, điều đó hoàn toàn thuộc về người tu.

Tự tánh thì có sẳn trong bất cứ lúc nào, nơi nào, nên lúc nào xoay nghe thì liền nghe được tự tánh. Lúc ấy cái nghe chính là tánh nghe. Như thế thì lúc nào cũng tu, lúc nào cũng chứng.

 

Thật như lời Thế Tôn

Hỏi con các phương tiện

Để cứu đời mạt pháp

Người cầu xuất thế gian

Thành tựu tâm Niết bàn

Quán Thế Âm hơn cả.

Còn các phương tiện khác

Đều là Phật oai thần

Ngay sự, bỏ trần lao

Chẳng dễ thường tu học

Sâu cạn đều đã thuyết.

 

Ngài Văn Thù trả lời câu hỏi của Đức Phật, rằng người cầu thoát khỏi sanh tử trong các đời sau thì tu nhĩ căn viên thông theo Bồ tát Quán Thế Âm là hơn cả. Các phương tiện pháp môn khác đều là lời chỉ dạy oai thần của Đức Phật để ngay nơi sự mà bỏ trần lao, nhưng khó có thể thường xuyên tu học với tất cả mọi căn cơ sâu và cạn.
Ngay sự bỏ trần lao thì ngay nơi cái nghe mà xoay về tánh nghe thì trực tiếp hơn vì không phải qua trung gian quán tưởng nào và cũng dễ dàng vì cái nghe thì ai cũng nhận ra ngay và luôn luôn có sẳn.

Ngay sự bỏ trần lao bằng cái nghe là phương tiện thích hợp hơn cả đối với cõi này và thời đại này. Còn nhanh hay chậm, sâu hay cạn là tùy thuộc vào mỗi người.

 

Đảnh lễ Như Lai tạng

Vô lậu, chẳng nghĩ bàn

Nguyện gia bị vị lai

Không lầm trong pháp này.

Phương tiện dễ thành tựu

Nên dùng dạy A Nan

Cùng đời sau chìm đắm

Chỉ dùng căn này tu

Viên thông hơn tất cả

Tâm chân thật như vậy.

 

Viên thông do căn tai là thích hợp hơn cả đối với ngài A Nan lúc ấy và chúng sanh đời sau chìm đắm. Xoay nghe là ‘‘phương tiện dễ thành tựu’’, ai cũng có ngay bây giờ.

Sau khi lựa chọn căn viên thông, ngài Văn Thù cầu nguyện Như Lai tạng, là cái bổn nguyên của chư Phật và chúng sanh, gia bị cho đời sau không lầm lỗi trong pháp nhĩ căn viên thông này.

Ngài Văn Thù là thầy của bảy Đức Phật, khi ngài nói bằng tâm chân thật thì tâm này cũng là tâm chư Phật. Để nói về nhĩ căn viên thông, bắt đầu Đức Phật và chư Phật phóng hào quang biến tất cả các cõi thành một pháp giới viên dung khiến đại chúng được vào Tam muội Kim cương, đây là sự chứng minh cho những lời ngài Văn Thù sắp sửa nói. Kết thúc bài kệ chọn lựa căn viên thông, ngài Văn Thù xác định lời nói của mình từ tâm chân thật, tức là Phật tâm, quả thật, đây là quyết định chọn lựa của chư Phật. Chỉ riêng đoạn kinh chọn lựa căn viên thông này, có đủ Tín, Nguyện, Hạnh cho người tu hành của đủ mọi loại căn cơ sâu cạn.

 

Ngay đó, A Nan cùng cả đại chúng thân tâm sáng tỏ, được đại khai thị, thấy rõ Giác ngộ và Đại Niết bàn của Phật, như người nhân có việc đi xa chưa trở về ngay được, song đã biết rõ con đường về nhà.

Khắp trong chúng hội, tám bộ Trời Rồng, hàng Hữu học Nhị thừa và tất cả các Bồ tát mới phát tâm, số lượng bằng mười hằng sa đều nhận biết được bản tâm, xa lìa trần cấu, được pháp nhãn tịnh.

Tánh tỳ kheo ni nghe nói xong kệ, thành A La Hán. Vô lượng chúng sanh đều phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.  
 

Bài kệ kết thúc lựa chọn căn viên thông, với sự chứng minh chấp nhận của chư Phật đã đưa tâm thức đại chúng lên một tầm cao mới. Xoay nghe, đây là con đường về nhà rõ ràng trước mắt, dầu có thể chưa về được ngay.

“Nhận biết được bản tâm, xa lìa trần cấu, đắc pháp nhãn tịnh” là Sơ địa của hàng Bồ tát Thập địa và Sơ quả Nhập lưu của hàng Thanh Văn, cũng là Kiến đạo vị chung cho cả hai thừa. Kiến đạo vị là thấy rõ con đường trở về nhà, từ đây mới thật sự đi mà không lầm lạc. Thấy rõ nguồn tánh viên thông, huân tu trên chính tánh viên thông ấy, đây là Tu tập vị hay Con đường thiền định thiền quán. Đến lúc hết sạch trần cấu, hoàn toàn thanh tịnh, là Con đường không tu nữa, từ Địa thứ Tám Vô sanh pháp nhẫn cho đến thành Phật.

Đặc biệt Tánh tỳ kheo ni, tức cô Ma Đăng Già, tuy ban đầu thì có vẻ kém sút hơn ngài A Nan, mà đến đây đắc quả A La Hán, tương đương với Vô sanh pháp nhẫn. Chỉ trừ Đức Phật và các Đại Bồ tát ai dám thấy những sự kiện bằng mắt thường mà đoán định căn cơ?

 

----oo0oo-----

Trích: "Kinh Lăng Nghiêm - Hành Giải"

Dịch và giảng giải: Đương Đạo

NXB Thiện Tri Thức-2016

Ảnh: Nguồn internet

 

 

Bài viết liên quan