CHỈ, QUÁN VÀ THIỀN - ĐƯƠNG ĐẠO - KINH VIÊN GIÁC LƯỢC GIẢNG

CHỈ, QUÁN VÀ THIỀN

ĐƯƠNG ĐẠO - KINH VIÊN GIÁC LƯỢC GIẢNG

-------o0o-------

Thiền na là biết tâm của mình. Biết được cái tâm sanh diệt của mình bèn biết cái tâm không sanh không diệt của mình, tức là tánh Viên Giác.
CHỈ, QUÁN VÀ THIỀN - ĐƯƠNG ĐẠO - KINH VIÊN GIÁC LƯỢC GIẢNG

* Tu Xa ma tha

Thiện nam tử! Nếu các chúng sanh tu Xa ma tha thì trước giữ tột tĩnh, chẳng khởi niệm tưởng. Tĩnh cùng tột bèn giác. Cái tĩnh ban đầu như vậy từ một thân cho đến một thế giới, giác cũng như thế.

Thiện nam tử! Nếu Giác đầy khắp một thế giới, thì trong thế giới ấy có một chúng sanh khởi một niệm cũng đều có thể biết. Trăm ngàn thế giới cũng lại như vậy. Mọi thứ cảnh giới chẳng phải như đã được nghe thì trọn không giữ lấy.

 

Tu Chỉ là đưa tâm thức đến chỗ tột tĩnh, không còn niệm tưởng. Tĩnh cùng tột tức là tâm không, tâm không thì Giác hiện. Thế nên nói “Tĩnh tột bèn Giác”. Tĩnh tột là tánh Không, Giác là quang minh của tánh Không ấy.

Đó là pháp Chỉ đi từ niệm vào vô niệm, từ ngoài tướng vào tánh. Còn có pháp Chỉ thì an trụ trong tánh mà ứng xử với tướng. Đó là biết rằng khởi niệm hay không khởi niệm đều cũng một tánh tĩnh, như có sóng hay không có sóng đều cùng là một tánh nước của đại dương. Trụ nơi cái tánh tĩnh ấy mà thu nhiếp các sóng niệm tưởng vào trong biển Trí tĩnh lặng, đó là phương pháp đi đến chỗ “tĩnh cùng tột” bằng cách trụ nơi tánh tĩnh càng lúc càng đi sâu.

Pháp Chỉ đi từ ngoài vào là làm ngừng yên sóng niệm để thành biển Giác tĩnh lặng. Pháp Chỉ ở từ trong ra là ở nơi biển Giác tĩnh lặng an nhiếp thu hồi sóng niệm để “chẳng khởi niệm tưởng”. Cả hai pháp Chỉ “tột tĩnh bèn Giác” và “Giác bèn tột tĩnh” mục đích và phương tiện đồng như nhau, tùy theo thiện căn của hành giả mà thực hành, hoặc cả hai thay phiên đổi nhau cũng được.

Tĩnh đến đâu thì Giác đến đó. Tĩnh cùng Giác ban đầu ở một thân, sau rộng khắp một thế giới, rồi tất cả pháp giới, cho đến khi “tất cả đều là Giác”, như chương Phổ Nhãn nói: Do sự sâu và rộng của tĩnh và giác này mà an lập các địa vị Bồ tát.

Khi tĩnh và giác “từ một thân cho đến một thế giới” thì thân và thế giới đồng một cái Giác thì một niệm nào của một chúng sanh trong thế giới cũng đều là mình nên đều có thể biết. Khi ấy pháp giới là mình.

Tánh Giác thì toàn khắp, không cái gì không phải là nó, không thế giới nào không phải là nó, nhưng tùy theo hành giả chứng tánh Giác rộng đến đâu thì thế giới bên ở trong và là hành giả đến đó. Thế giới là ta, ta là thế giới. Ba cõi duy chỉ là tâm ta, muôn pháp duy chỉ là thức ta. Như thế cho đến: Tất cả là mình, mình là tất cả.

 

* Tu Tam ma bát đề

Thiện nam tử! Nếu các chúng sanh tu Tam ma bát đề thì trước phải tưởng nhớ mười phương Như Lai và tất cả Bồ tát trong mười phương thế giới, y theo thảy thảy pháp môn siêng năng cần khổ thứ lớp tu hành Tam muội, rộng phát đại nguyện, tự huân tập thành chủng tử. Mọi thứ cảnh giới chẳng phải như đã được nghe thì trọn không giữ lấy.

 

Nếu như pháp Chỉ chú trọng sự đi vào trong tâm, thì pháp Quán chú trọng sự mở tâm ra với bên ngoài. Chỉ là tánh Không, Quán là quang minh soi sáng của tánh Không ấy. Mở tâm ra với thế giới bên ngoài để tu nhiếp tất cả cảnh, tất cả thế giới vào Như huyễn tam muội mà chứng thực ‘ba cõi duy chỉ là tâm, muôn pháp duy chỉ là thức’. Khi thấy mọi thế giới đều như huyễn thì đó là giải thoát, giác ngộ, đó là “dạo chơi trong biển đại tịch diệt của chư Phật”.

Mở tâm ra với bên ngoài mà quán chiếu để tương ưng, thâm nhập thế giới như huyễn, càng huyễn đến đâu càng thâm nhập pháp giới như huyễn của chư Phật đến đó. Muốn mở tâm ra để thấy và thể nhập thế giới như huyễn của chư Phật, chư Bồ tát thì trước tiên phải tưởng nhớ đến mười phương Như Lai cùng Bồ tát rồi mới có thể tương ưng được với thế giới như huyễn của các ngài. Chính nhờ tương ưng được với Phật lực như huyễn của Pháp thân, Báo thân và Hóa thân của các ngài mà hành giả mới tùy thuận được “lực biến hóa như huyễn” là căn bản của pháp Tam ma bát đề.

Nói là thảy thảy pháp môn và pháp môn thì rất nhiều, thấy tướng ở đâu thì thấy huyễn ở đó. Sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp là cửa pháp (pháp môn) để quán huyễn, mắt tai mũi lưỡi thân ý là cửa pháp để ngộ nhập huyễn. Thức, ngủ, thiền định và sau khi chết (trung ấm) là pháp môn vì chúng ta đều tìm thấy tâm biến hóa như huyễn ở đó.

Như huyễn thì nghịch lại với thế giới sanh tử được thấy là thật của chúng ta. Thế nên như huyễn được phần nào thì sanh tử tiêu tan đến đó. Sự huân tập thành chủng tử như huyễn này dần dần lớn lên, như hạt giống dần dần lớn lên thành cây, cho đến khi trùm cả ba cõi.

Bất cứ hình tướng gì, dù thấp nhất như địa ngục hay cao nhất như các cõi Tịnh độ đều nhiếp vào như huyễn tam muội. Cái gì chưa là huyễn thì phải thấy cho được là như huyễn, như vậy mới là Quán huyễn. Kinh Đại Bát Nhã nói: “Nếu có một pháp nào cao hơn Niết bàn, tôi nói là như huyễn, như mộng. Vì sao thế? Vì huyễn mộng và Niết bàn không hai không khác”.

Càng thấy huyễn thì người ta không chạy theo các huyễn mà an trụ vào Nền tảng tánh Viên Giác “chẳng phải huyễn”. An trụ vào tánh Viên Giác chẳng phải huyễn này, đó là giải thoát.

Cũng cần chú ý đến một điều rất bí mật: Như huyễn chính là đại bi. Như chương Oai Đức Tự Tại trước đã nói tu Xa ma tha thì phát ra tịch tĩnh khinh an, tu Thiền na thì phát ra tịch diệt khinh an, còn tu Tam ma bát để thì phát ra đại bi khinh an. Như vậy muốn thành tựu đại bi thì phải tu như huyễn, khi ấy là đồng thể đại bi. Và ngược lại, muốn hạt giống như huyễn lớn nhanh phải tu đại bi, phải “rộng phát đại nguyện”.

 

* Tu Thiền na

Thiện nam tử! Nếu các chúng sanh tu Thiền na thì phải tu sổ tức, trong tâm rõ biết các niệm sanh, trụ, diệt, dài ngắn và đầu cuối. Như thế cho đến trong bốn oai nghi đều phân biệt rõ ràng số niệm, không gì chẳng biết. Lần lượt tăng tiến cho đến biết được một giọt mưa trong trăm ngàn thế giới, như mắt xem thấy các vật dụng. Mọi thứ cảnh giới chẳng phải như đã được nghe thì trọn không giữ lấy.

 

Thiền na là biết tâm của mình. Biết được cái tâm sanh diệt của mình bèn biết cái tâm không sanh không diệt của mình, tức là tánh Viên Giác. Trong Kinh Lăng Nghiêm quyển 1, Đức Phật phân biệt hai thứ căn bản: chân tâm không sanh không diệt và vọng tâm sanh diệt, chủ thì thường trụ, khách thì có đến có đi, hư không thì bất động, bụi bặm thì lăng xăng mà chẳng hề ô nhiễm nổi hư không.

Thấy biết rõ ràng một niệm sanh khởi từ đâu, tồn tại, biến đổi thế nào, và diệt mất ở đâu. Biết chỗ sanh khởi, chỗ diệt mất của một niệm bèn biết cái không sanh khởi không diệt mất, cũng như biết hoa đốm sanh từ đâu diệt về đâu, bèn biết ngay hư không không có hoa đốm. Thực biết chỗ sanh khởi chỗ diệt mất bèn khỏi hẳn sanh tử, đắc vô sanh pháp nhẫn. Cái thực của đạo Phật thì không cần nói nhiều, không cần làm đủ thứ pháp môn, chỉ cần quyết liệt thiết tha truy cứu, mở hết tâm nhãn để quan sát, thấy biết tường tận chỉ mỗi một niệm ‘sanh từ đâu, diệt về đâu” là mười phương sanh tử luân hồi trọn đều tiêu hoại.

Thiền là biết sự sanh trụ dị diệt của các niệm. Nhưng cái gì biết sự sanh diệt của các niệm? Cái biết sự sanh diệt của các niệm, cái ấy không sanh diệt, luôn luôn hiện hữu ở giữa hai niệm và vẫn hiện hữu khi có niệm. Cái ấy Thiền gọi là ‘chủ nhân ông, tự tâm, tự tánh, tự kỷ linh quang, người chân thực không địa vị, chẳng cùng muôn pháp làm bạn lứa...” là chỗ hộ niệm của chư Phật, là chỗ tu hành của tất cả Bồ tát. Tin nhận được cái đó, thấy biết được cái đó, an trụ trong cái đó, thâm nhập vào cái đó, cho đến khi hoàn hảo, nó và ta chẳng cách hở mảy lông, trùm khắp pháp giới. Đó là quá trình tu Thiền.

Khi tâm Vô niệm đã hiện tiền thì các niệm sanh trụ dị diệt đều được tâm vô niệm dung nhiếp, như sóng được đại dương dung nhiếp. Khi ấy các niệm cũng chính là vô niệm, như sóng chính là đại dương. Khi ấy không còn chủ khách: tất cả là chủ mà chẳng có gì là chủ, bao la mênh mông không bến không bờ. Niệm là cái dụng của vô niệm.

Sự phân chia giả tạo giữa chủ và khách, giữa niệm và vô niệm không còn. “Ba cõi chỉ là Nhất Tâm” như phẩm Thập Địa Kinh Hoa Nghiêm nói. Hay nói theo Kinh Viên Giác, “tất cả chỉ là một tánh Giác”.

Tất cả đều là mình, tất cả đều ở trong mình, thì một sự vật nhỏ như một hạt mưa trong trăm ngàn thế giới cũng đều là mình nên đều có thể biết. Mình đây là cái Giác trùm khắp nên cái gì cũng là cái biết.

 

* Viên mãn ba pháp quán tức là Như Lai

Đây là phương tiện ban đầu của ba pháp quán. Nếu các chúng sanh chuyên cần tinh tấn tu cả ba quán, tức gọi là Như Lai xuất hiện ở đời vậy.

 

Ba pháp quán là Như Lai xuất hiện ở đời, vì ba pháp tu ấy chính là Pháp thân, Báo thân và Hóa thân của Như Lai. Sở dĩ nói là phương tiện ban đầu, vì không thể nói hết về ba pháp quán, chỉ bậc chứng đắc tánh Viên Giác rốt ráo mới có thể khai triển giảng dạy đầy đủ về ba pháp ấy.

Ở đây chúng ta tóm lược về ba pháp quán trong một chủ đề nghiệp. Ba pháp quán giải quyết vấn đề nghiệp chướng như thế nào để giải thoát?

Với pháp Chỉ: lặn sâu xuống bản tánh của tâm, nơi đó không có nghiệp vì nơi đó không bị nhiễm ô bởi các thứ thô bên ngoài (khách trần phiền não). Ví như dưới đáy đại dương thì không có những chuyển động của sóng. Như bụi bặm thì chỉ dính ở bên ngoài da, tóc, áo quần, chứ không thể dính vào trái tim ở sâu bên trong được. Thế nên an trụ sâu vào cái Tĩnh của pháp Chỉ, người ta sẽ hết nghiệp, bởi vì nghiệp chướng sẽ lần lần rơi rụng, bị loại trừ khỏi thân tâm.

Với pháp Quán: nghiệp sở dĩ được tạo vì cho đời này là có thật, nên càng thấy huyễn bao nhiêu thì nghiệp càng được tiêu trừ. Khi thấy huyễn, tự động người ta an trụ vào cái chẳng phải huyễn, tức là bản tánh của tâm hay tánh Viên Giác. Ở nơi cái phi huyễn ấy, các nghiệp chướng như huyễn lần lần tiêu tan.

Với pháp Thiền: thấy tánh và sống trong tánh, thì tánh Giác này thấu thoát qua, xuyên qua, vô ngại với các dấu vết hình tướng do nghiệp chướng kết đọng lại mà thành. Một khi tánh Giác thấu thoát qua, vô ngại với các nghiệp che chướng ấy thì chúng sẽ mất sức mạnh và ảnh hưởng, chúng trở thành như huyễn. Như khi an trụ trong mặt gương, ánh sáng của gương thấu thoát qua các hình bóng trong gương, các hình bóng đó có, nhưng chẳng thể ô nhiễm, che chướng ánh sáng của mặt gương.

---o0o---

Tác giả: ĐƯƠNG ĐẠO

Trích: KINH VIÊN GIÁC LƯỢC GIẢNG

Đại Phương Quảng Viên Giác Liễu Nghĩa Kinh

Đời Đường, nước Kế Tần, Sa Môn Phật Đà Đa La dịch.

NXB THIỆN TRI THỨC 2015

Ảnh: Nguồn Internet.

Bài viết liên quan