CHÚNG TA ĐỀU LÀ PHẬT - NĂNG LỰC CHỮA LÀNH CỦA TÂM - TULKU THONDUP RINPOCHE

CHÚNG TA ĐỀU LÀ PHẬT

TULKU THONDUP RINPOCHE - NĂNG LỰC CHỮA LÀNH CỦA TÂM

–––––o0o–––––

Tâm giác ngộ thực sự không xa lạ lắm đâu. Tánh không hay sự rỗng rang luôn ở đây với chúng ta, dù chúng ta thường không nhận ra nó. Chúng ta có thể thể nghiệm toàn bộ về nó vào những thời điểm quan trọng trong cuộc sống, hay thậm chí là một thoáng thấy giữa cuộc sống hằng ngày của ta. Chúng ta không cần phải đợi tới lúc hấp hối. Dù cho những câu chuyện vào thời điểm cận...
CHÚNG TA ĐỀU LÀ PHẬT - NĂNG LỰC CHỮA LÀNH CỦA TÂM - TULKU THONDUP RINPOCHE

Đạo Phật tin rằng tất cả chúng sanh đều có
Phật tánh. Trong thật tánh của mình, tất cả chúng
ta đều là Phật. Tuy nhiên, khuôn mặt Phật tánh
của chúng ta bị che lấp bởi nghiệp và những tì vết
của nó, mà gốc rễ là sự chấp ngã giống như mặt trời
bị mây che phủ.
Tất cả chúng sanh đều giống nhau và đều là
một sinh linh toàn thiện trong thật tánh. Chúng ta
biết, khi tâm thức được tự nhiên, thoải mái và tự
tại trước những tình huống, những áp lực tinh thần
hoặc cảm xúc làm rối loạn, chúng ta thể nghiệm
được sự an vui. Điều này hiển nhiên cho thấy tâm
bản nhiên không bị nhiễm ô là an bình và không
đau khổ. Dù rằng trí huệ, thật tánh thường an trú
trong chúng ta, bị che phủ bởi sự nhiễm ô tinh thần,
nó vẫn hoàn thiện và trong sáng.

Tổ Long Thọ (Nagarjuna), người đặt nền tảng cho
học phái Trung Đạo của Phật giáo Đại thừa đã viết:
Nước trong trái đất không bị biến thể.
Cũng vậy, trong phiền não.
Trí huệ vẫn không biến thể.
Tổ Long Thọ nói về sự an bình và giải thoát như là “cảnh giới tối hậu” của chính nó luôn luôn ở trong
chúng ta mọi lúc nếu ta nhận ra nó, chứng ngộ nó:

Trong bụng bà mẹ mang thai
Dù có một đứa trẻ, ta không thể thấy.
Tương tự, ta không thấy tự tánh mình
Nó bị che lấp bởi phiền não của chúng ta.
An bình là ở trong chúng ta, chúng ta không
cần phải tìm kiếm ở đâu khác. Bằng cách dùng cái
mà đạo Phật gọi là “phương tiện thiện xảo” gồm sự
thực hành thiền định, chúng ta có thể mở bày ra
điện thờ thiêng liêng tối hậu này.
Tổ Long Thọ mô tả cảnh giới tối hậu này - sự
rỗng rang vĩ đại, sự hợp nhất giữa tâm và pháp giới
- theo cách sau:
Khi khuấy sữa, bơ tinh chất sẽ hiện ra,
Tịnh hóa phiền não, cõi giới tối hậu sẽ hiển lộ
toàn vẹn
Như đèn trong bình, ánh sáng không xuất
hiện.
Phật tánh bị che phủ trong cái bình của phiền
não khiến ta không thể thấy.
Nếu ta đục một lỗ trên bất cứ chỗ nào của bình
Từ chỗ đó ánh sáng chiếu ra mạnh mẽ
Khi cái bình của những phiền não
Bị hủy diệt bởi định như Kim Cương
Ánh sáng chiếu soi vào hư không vô tận.
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, đức Phật có thật
trong lịch sử, từng nói trong Haivajra:

Chúng sanh là Phật trong bản tánh chân thật
của họ,
Nhưng bản tánh của họ bị che ám bởi những
phiền não duyên sanh
Khi những phiền não được trừ sạch, chúng
sanh là Chân Phật.
Phật tánh hay giác ngộ là “vô ngã”. Nó là sự an
vui, rỗng rang, vô ngã, nhất thể và niềm vui toàn
thể, vĩnh viễn, toàn khắp. Với đa số người, viễn
cảnh đạt đến toàn giác là rất xa lạ và khó hiểu. Mục
đích của quyển sách này là không vượt khỏi bản
ngã, cũng không phải là toàn giác, mà chỉ là buông
xả việc chấp chặt bản ngã một ít để được hạnh phúc
và mạnh khỏe hơn. Dù thế, nó giúp ta có được một
ý niệm về cái có nghĩa là sự rộng mở và nhất thể
toàn triệt.
Những câu chuyện chúng ta được nghe về
“những kinh nghiệm cận tử” lúc hấp hối, hay trở về
từ cõi chết, có thể cung cấp cho ta sự quán chiếu.
Nhiều người sống lại từ quá trình hấp hối đã mô tả
việc di chuyển qua một đường hầm, gặp ánh sáng
trắng xúc chạm cho họ một cảm giác đại lạc, đại an
bình. Tuy vậy, ánh sáng không phải là một cái gì
tách rời khỏi kinh nghiệm này. Ánh sáng là sự an
bình. Và họ là ánh sáng. Họ không kinh nghiệm và
thấy ánh sáng theo lối nhị nguyên thông thường,
như chủ thể và đối tượng. Thay vào đó, ánh sáng,
sự an bình và con người là một.
Trong một câu chuyện lúc cận tử, một người đàn
ông đã thấy lại mọi việc xảy ra trong đời sống mình, từ lúc mới sinh ra cho đến khi chết, không chỉ là một
sự kiện này tiếp theo một sự kiện khác, mà toàn bộ
cuộc sống xảy ra cùng lúc. Và ông ta không thấy
bằng mắt hay nghe bằng tai, ngay cả biết bằng ý,
ông ta có một tỉnh giác sinh động và thuần khiết về
cái thấy, biết và cảm nhận mà không có sự cách biệt
giữa chúng. Trong trường hợp như vậy, khi những
giới hạn và hạn chế không còn, đó là cái “Một”. Với
cái “Một”, không có đau khổ hay xung đột, vì xung
đột chỉ hiện hữu khi nào ở đó có hơn “Một”.

Với Phật tử, những kinh nghiệm như vậy được
đặc biệt quan tâm, vì chúng có thể là một thoáng
thấy “trung ấm quang minh của bản tánh tối hậu”,
là một giai đoạn chuyển tiếp sau khi chết, cho người
nào có một nhận biết nào đó về chân lý, vượt khỏi
phạm trù không gian, thời gian và những ý niệm
thông thường. Những chuyện như vậy không chỉ
là về kinh nghiệm chết, mà chúng còn có thể cho
chúng ta biết về sự giác ngộ có thể thực hiện trong
lúc ta đang sống.

Tâm giác ngộ thực sự không xa lạ lắm đâu.
Tánh không hay sự rỗng rang luôn ở đây với chúng
ta, dù chúng ta thường không nhận ra nó. Chúng
ta có thể thể nghiệm toàn bộ về nó vào những thời
điểm quan trọng trong cuộc sống, hay thậm chí là
một thoáng thấy giữa cuộc sống hằng ngày của ta.
Chúng ta không cần phải đợi tới lúc hấp hối. Dù cho
những câu chuyện vào thời điểm cận tử này có thể
gây cảm hứng và thích thú, nhưng giác ngộ không chỉ là một câu chuyện này hay câu chuyện khác.
Nó không phải là kinh nghiệm “này” hay cách nhìn
“kia”; hoặc chúng sanh này chúng sanh kia. Toàn bộ
tánh rỗng rang vượt khỏi những đối cực “hiện hữu”
và “không hiện hữu”, cũng không phải “vừa hiện
hữu vừa không hiện hữu” hay “vừa không hiện hữu
vừa không phải không hiện hữu”. Nói cách khác,
toàn thể tánh rỗng rang không thể ở trong mô tả
và ý niệm.

–––––o0o–––––

Trích: “Năng Lực Chữa Lành Của Tâm”

“The Healing Power Of Mind”

Tác giả: Tulku Thondup Rinpoche

Việt dịch: Tuệ Pháp

Hiệu đính: Nguyễn Minh Tiến

Nhà Xuất Bản Tôn Giáo

Ảnh: Nguồn internet

Bài viết liên quan