Chặp lâu, ngài Huệ Khả nói: Con tìm tâm mãi, rốt cuộc chẳng thể đắc.
Tổ Đạt Ma nói: Vậy là ta đã an tâm cho con rồi đó. Ngài Huệ Khả liền ngộ nhập.
Câu hỏi thứ tư: Với các chúng sanh chưa tu hành, thường sống theo huyễn hóa, chưa hề biết như huyễn, làm sao thoát khỏi tâm vọng tưởng huyễn hóa?
Khi nhìn lại những cảnh đời đã sống qua, ai cũng thấy như một giấc mộng không còn chút bóng dáng, chúng chỉ là “bóng dáng duyên theo sáu trần”, ai không âm thầm tự biết ‘mình mộng thấy đời mình’? Đạo Phật dạy cho chúng ta thấy sự thật của đời sống, sự thật ấy là Như Huyễn tam muội mà Đức Phật sẽ trả lời sau.
Bấy giờ Thế Tôn bảo cùng Bồ tát Phổ Hiền:
Lành thay! Lành thay! Thiện nam tử! Các ông có thể vì các Bồ tát và chúng sanh đời rốt sau mà thưa hỏi sự tu tập tam muội Như Huyễn của Bồ tát, phương tiện thứ lớp, khiến cho chúng sanh được lìa các huyễn. Nay các ông lắng nghe, ta sẽ vì các ông nói.
Khi ấy Bồ tát Phổ Hiền hoan hỷ vâng lời dạy, cùng cả đại chúng yên lặng lắng nghe.
Trong Kinh Lăng Nghiêm, Đức Phật có bài kệ tụng về tam muội Như Huyễn, nói lên sự quý báu và quan trọng của tam muội này và cũng chỉ ra chỗ quy về của các kinh là tam muội Như Huyễn.
Trong Chân Tánh, hữu vi là không
Duyên sanh nên như huyễn
Vô vi, không khởi diệt
Chẳng thật, như không hoa.
Nói vọng để hiển chân
Vọng chân đều là vọng
Còn không “chân, chẳng chân”
Lấy đâu “thấy, chỗ thấy”.
Ở giữa không thật tánh
Giống như lau gác nhau
Buộc, mở đồng một nhân
Thánh phàm không hai lối
Hãy xem tánh giao nhau
Có, không đều chẳng phải
Mê lầm là vô minh
Rõ ra liền giải thoát.
………………………
Đó là Diệu liên hoa
Bảo Giác, kim cương vương
Như huyễn Tam ma đề
Gảy móng tay vượt Vô học
Đây là pháp vô thượng
Một đường đến Niết Bàn
Của mười phương chư Phật.
Thiện nam tử! Mọi thứ huyễn hóa của tất cả chúng sanh đều sanh trong Diệu Tâm Viên Giác Như Lai, giống như hoa đốm giữa hư không ở trong hư không mà có, hoa huyễn tuy diệt mà tánh hư không chẳng hề hoại diệt.
Thức tâm huyễn hóa của chúng sanh cũng như hoa đốm kia, y theo huyễn mà diệt, tuy các huyễn diệt hết, giác tâm bất động.
Nương nơi huyễn để nói rằng Giác, thì đó cũng chỉ là huyễn. Nếu nói có Giác thì vẫn chưa lìa huyễn. Còn nói không giác thì cũng chưa khỏi huyễn.
Thế nên huyễn diệt, gọi là tánh giác chẳng động.
Ở đây Đức Phật chỉ thẳng chân tánh, hiển bày đốn ngộ: Hết thảy mọi thứ thân tâm, thế giới huyễn hóa của chúng sanh đều sanh trong Diệu Tâm Viên Giác Như Lai, tất cả các tướng sanh diệt như huyễn chưa từng lìa ngoài tánh Giác bất động quang minh: ngay đây là tánh Giác thanh tịnh. Tất cả các tướng sóng sanh diệt chưa từng lìa khỏi tánh nước đại dương. Tất cả các bóng sắc dầu đến dầu đi đều nằm trong gương tâm sáng soi trùm khắp, đó là Diệu Tâm Viên Giác. Tất cả hoa đốm như huyễn dường như có sanh có diệt nhưng luôn ở trong hư không, đó là “giác tâm như hư không chẳng động.”
Thấy tất cả mọi tướng có đều ở trong tánh Giác Minh Không, đó là thấy Tánh. Đoạn này, đức Phật chỉ dạy: ngay nơi chỗ sanh diệt của các tướng mà thấy cái tánh chẳng sanh diệt, đó là đốn ngộ chân tánh. Nơi nào có bóng thì đó là gương, nơi nào có hoa đốm thì đó là hư không chẳng động, nơi nào có tướng thì đó là tánh. Đó là đốn ngộ.
Nhưng tuy thấy tánh chẳng sanh diệt mà chưa thấy được hoàn toàn, vẫn còn có các tướng dường như sanh dường như diệt, thì phải tiệm tu cho đến khi không còn các tướng sanh diệt, đến chỗ: “sanh diệt diệt hết, tịch diệt hiện tiền” mới là viên mãn.
Nương nơi hoa đốm sanh diệt để nói rằng có hư không không sanh diệt thì hư không đó vẫn còn nằm trong thức tâm tạo ra hoa đốm. Vọng chấp rằng có huyễn, đến khi huyễn diệt rồi gọi đó là Giác thì tánh giác đó vẫn chưa lìa khỏi thức sanh diệt vô minh. Có huyễn thì có Giác, nhưng huyễn chưa từng sanh, thì gọi cái gì là Giác? Hoa đốm nào giác, giác chỗ nào? Cho nên trong tánh Viên Giác chưa từng có vô minh, thì giác hay không giác đều là hý luận.
Thiện nam tử! Tất cả Bồ tát và chúng sanh đời rốt sau cần phải xa lìa hết thảy cảnh tướng huyễn hóa hư vọng. Do chấp chặt cái tâm xa lìa, tâm ấy như huyễn nên cũng phải xa lìa. Cái lìa “sự xa lìa” ấy là huyễn nên cũng phải xa lìa.
Đến chỗ “không có gì để lìa” tức là trừ hết các huyễn.
Ví như lấy lửa từ hai thanh cây cọ xát nhau, lửa phát ra thì cây cháy trọn, tro bay khói hết. Dùng huyễn để tu huyễn thì cũng như vậy. Các huyễn tuy hết mà chẳng rơi vào đoạn diệt.
Đoạn này nói về tiệm tu. Trừ huyễn đến đâu tánh giác hiện ra đến đó, lần lượt lên các địa vị cho đến thành Phật. Nhưng tiệm và đốn là chỉ về người tu chứ không chỉ cho pháp có đốn tiệm. Mớ vô minh huyễn hóa ấy mà chặt một lần đứt hết thì đó là đốn, còn chặt nhiều lần mới đứt hết thì là tiệm. Còn pháp Viên Giác từ xưa nay vẫn vậy, chưa từng có vô minh huyễn hóa nên chẳng có vấn đề đốn tiệm gì nơi nó.
Muốn thoát khỏi sanh tử đã thành thì phải quán thấy bản chất sanh tử là như huyễn. Người ta thanh toán sanh tử bằng cách nhận ra nó là do vọng thấy nên như huyễn.
Trước hết là phải tin hết thảy thân tâm thế giới là như huyễn. Như huyễn vì thân tâm thế giới, chủ thể đối tượng… đều do thức phân biệt mà có ra. Nói theo Duy thức, chúng đều là Biến kế sở chấp tánh, như lông rùa sừng thỏ. Như huyễn bởi vì chúng hiện hình trên ánh sáng căn bản đại quang minh tạng. Đức Phật dạy có bốn giai đoạn là để hành giả cẩn thận nghiệm xét mình đã sạch tới đâu, thâm nhập đại quang minh tạng tới mức độ nào.
1/ Xa lìa mọi cảnh tướng huyễn hóa hư vọng. Quán các cảnh là bóng ảnh của nghiệp thức duyên theo sáu trần nên vô tự tánh. Biết đó là như huyễn tức là xa lìa. Càng xa lìa thì nền tảng đại quang minh tạng hiện rõ ràng. Nói theo Duy Thức thì đây là xa lìa Tướng phần.
2/ Tâm là như huyễn nên cũng phải xa lìa. Cảnh như huyễn do tâm như huyễn mà có. Tâm chỉ là bóng ảnh duyên theo sáu trần, động thì có, không động thì không, nên tâm là vô tự tánh, như huyễn. Thấy tâm như huyễn thì thấy nền tảng quang minh của tâm như huyễn ấy. Nói theo Duy Thức thì đây là xa lìa Kiến phần.
3/ Sự xa lìa ấy cũng là huyễn, nên cũng phải xa lìa. Tâm và cảnh là huyễn, cho nên sự xa lìa tâm cảnh huyễn ấy cũng là việc hư vọng huyễn hóa, cũng như hoa đốm giữa hư không là chưa từng có, thì sự xa lìa hoa đốm ấy cũng là một việc làm huyễn hóa. Sự xa lìa các huyễn là do thức chấp ngã (mạt na thức). Còn có sự xa lìa các huyễn tức là còn thức chấp ngã, bởi thế phải xa lìa cái ngã thức muốn xa lìa các huyễn này đi. Nói theo Duy Thức thì đây là xa lìa Tự chứng phần.
4/ Cái “lìa sự xa lìa” ấy cũng là huyễn nên cũng phải xa lìa. Tất cả là hoa đốm không có thật, nên còn chút cái ta nào muốn xa lìa, chút pháp nào để xa lìa và chút hành động xa lìa nào thì vẫn còn chút hư vọng nổi lên trong biển Giác đại quang minh tạng. Còn chút động niệm xa lìa nào là vẫn còn chưa xa lìa được tâm, ý, ý thức hoa đốm.
Đây là chút ngã - pháp vi tế còn ẩn tàng trong A lại da mà nói theo Duy thức là xa lìa cái nhiễm ô trong Chứng tự chứng phần. Xa lìa cái nhiễm ô trôi chảy vi tế ấy, cái nghiệp vi tế ấy, tức là chuyển tất cả A lại da thức thành Bạch tịnh thức. Bạch tịnh thức này là tâm Viên Giác.
Tóm lại, xa lìa hết cảnh, tâm, xa lìa hết thảy các tướng và tưởng, biết tất cả là như huyễn, đó là công tu hành Như Huyễn tam muội. Như Huyễn tam muội đặt nền tảng trên biển giác Đại Quang minh tạng. Cho đến không còn gì để lìa thì đó là tâm Viên Giác toàn khắp, quang minh, bất động.
Trong đời người, ai cũng có đủ bốn cảnh giới: trạng thái khi thức, trạng thái ngủ mộng, trạng thái thiền định, trạng thái chết và trung ấm. Tu huyễn là thể nghiệm huyễn trong cả bốn trạng thái ấy. Bốn trạng thái ấy biến thành huyễn được bao nhiêu phần thì nền tảng của chúng là tâm quang minh hay tịnh quang (od-sal, clear light) hiện ra bấy nhiêu. Tâm quang minh Viên Giác này thì vốn giải thoát và giác ngộ, vì chưa từng bị ô nhiễm.
Đoạn này và đoạn trên nói đến hai cách tu hành đắp đổi nhau, luân phiên nhau để thành tựu:
Một là, đứng trong tánh hay bản tâm càng thấy rõ tánh hay bản tâm chừng nào, các tướng hoa đốm càng diệt mất chừng đó.
Hai là, ở nơi tướng mà quán huyễn. Các tướng huyễn càng diệt chừng nào thì tánh giác càng hiển lộ ra chừng ấy.
Khi tất cả là huyễn, không còn gì để lìa, không có gì để làm, không có gì để mong muốn, không có gì để hy vọng và thất vọng, khi ấy thân khẩu tâm không còn nghiệp, không còn hành động, đó tức là hết nghiệp, giải thoát. Đó là thực tại Viên Giác với ba đặc tính là Không, Vô tướng, Vô tác hay Vô niệm.
Thiện nam tử! Biết huyễn tức lìa, chẳng khởi phương tiện; lìa huyễn là giác, cũng không thứ lớp.
Tất cả Bồ tát chúng sanh đời sau y đây tu hành, như thế mới có thể lìa vĩnh viễn các huyễn.
Biết hư không chưa từng sanh ra hoa đốm, biết biển giác quang minh chưa từng có tướng và tưởng, có muốn nắm lấy cũng chẳng thể được, có muốn xa lìa cũng chẳng thể được, thì đây là sự xa lìa vĩnh viễn, xa lìa rốt ráo. Đó là giác vậy.
Biết tất cả đó, dầu quá khứ hiện tại hay tương lai là hoa đốm vọng thấy giữa hư không, không thể từ đâu sanh ra, không thể diệt về chốn nào, ắt là rốt ráo xa lìa mọi vọng tưởng, rỗng suốt một vị Niết bàn. Há lại còn khởi sanh thêm một lớp vọng tưởng hoa đốm gọi đó là phương tiện để xoá đi các thứ lớp hoa đốm chưa từng có kia sao?
Trong tánh Viên Giác chưa hề có vô minh nên cũng chưa có vô minh diệt, chưa hề có sanh tử điên đảo cho nên cũng không nhờ phương tiện nào để diệt sanh tử điên đảo. Thật biết là “vọng thấy, vọng nhận, vọng chấp” thì đâu cần vọng lập thứ gì để diệt trừ. Trên vọng thấy hoa đốm chớ vọng lập thêm một lớp vọng tưởg hoa đốm gọi là trừ diệt, tịnh hoá, tu hành…, đó là chẳng khởi phương tiện. Ngay đó vô sanh, là giải thoát.
Khi tất cả trước mắt là tánh Giác quang minh có cái gì mà chẳng phải ánh sáng, tất cả là ánh sáng căn bản, thì muốn vọng tưởng ra chút ánh sáng nào để trừ diệt bóng tối nào?
Đoạn này Đức Phật chỉ thẳng Đốn ngộ, Đốn chứng: biết huyễn tức lìa, chẳng khởi phương tiện; lìa huyễn tức giác, cũng không thứ lớp. Lìa huyễn tức giác, vì giác đã vốn có sẵn rồi, đầy mắt đầy tai, nơi tướng nơi tưởng.
Trong tâm Viên Giác, chỉ toàn là ánh sáng, chưa từng có phân biệt như huyễn, cho nên vừa chẳng khởi phương tiện thì tánh Giác hiện bày.
Bấy giờ Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa này nên nói kệ rằng:
Phổ Hiền ông nên biết
Mọi huyễn hoá vô minh
Vô thủy của chúng sanh
Đều sanh trong Viên Giác,
Tâm của chư Như lai.
Như hoa đốm giữa không
Y không mà có tướng
Hoa không nếu mà diệt
Hư không vốn chẳng động.
Các huyễn từ giác sanh
Huyễn diệt, giác viên mãn
Tâm Giác vốn chẳng động.
Nếu như các bồ tát
Và chúng sanh đời sau
Thường xa lìa các huyễn
Các huyễn thảy đều lìa
Như trong cây sanh lửa
Cây tiêu lửa cũng tắt
Giác tức không thứ lớp
Phương tiện cũng như vậy.
Biết các tướng hoa đốm đều sanh khởi trong và y vào hư không nên vô sở hữu và bất khả đắc, bèn biết ngay cái vô sở hữu và bất khả đắc ấy chính là hư không bao la vô hạn.
Biết “mọi huyễn hoá vô minh từ vô thuỷ của chúng sanh đều sanh trong tâm Viên Giác của chư Như Lai”, thì ngay đây thấy tất cả đều là tánh Viên Giác. Toàn tướng, toàn tưởng là tánh, đó là ngay nơi tướng huyễn mà thấy tánh.
Càng thấy rõ Tánh thì các tướng huyễn càng tịch diệt, nghĩa là càng vô tự tánh. Càng thấy rõ hư không thì hoa đốm càng chẳng sanh. Ngược lại, càng thấy rõ các tướng là huyễn thì tánh càng bày lộ. Các tướng hoa đốm càng tịch diệt thì hư không càng rỡ ràng.
Tánh Viên Giác thì bao la vô hạn, “thân tâm tịch diệt, bình đẳng suốt ba thời, viên mãn khắp mười phương, tuỳ thuận bất nhị” nên khi trực tiếp thấy nó, thì thân tâm và thế giới như hạt bụi huyễn, như hạt bụi trong mộng. Trong Kinh Lăng Nghiêm nói về sự đốn ngộ Pháp thân hay tánh Viên Giác của ngài A nan:
“Lúc bấy giờ, ngài A nan và cả đại chúng nhờ Phật Như Lai vi diệu chỉ bày, thân tâm rỗng rang không gì chướng ngại. Cả đại chúng mỗi người đều tự biết Tâm đầy khắp mười phương. Thấy mười phương Không như xem chiếc lá trong bàn tay, tất cả thế gian, hết thảy vật gì cũng là Bồ đề Diệu Minh Nguyên Tâm. Tâm Tánh viên mãn, trùm chứa tất cả mười phương cõi nước. Nhìn trở lại cái thân do cha mẹ sanh, như một hạt bụi như còn như mất trong hư không mười phương. Như biển lớn lặng trong, nổi trôi một bọt nước, khởi diệt chẳng màng, rõ ràng tự biết vào được cái Tâm nhiệm mầu xưa nay, thường trụ bất diệt.
Được cái chưa từng có, bèn chắp tay lễ Phật, ở trước Như Lai nói lên bài kệ xưng tán bậc Giác ngộ”.
Chính ngay tánh Viên Giác mà tu, thì không có thứ lớp, vì thứ lớp nào cũng là hoa đốm, vì thứ lớp nào cũng không ngoài, cũng là tánh Viên Giác. Chính ngay tánh Viên Giác ấy mà tu, thì không khởi phương tiện, vì phương tiện nào cũng là tướng hoa đốm mà cũng là tánh Viên Giác. Vì Viên Giác là Đại Tổng trì (Đại Đà la ni) nghĩa là nắm giữ tất cả pháp, thế nên chạm vào pháp nào cũng tức là chạm vào tánh Viên Giác.
Nói không khởi phương tiện, vì phương tiện nào cũng là cứu cánh Viên Giác. Như thế không có thứ lớp, không lập ra các địa, vì từ đầu đến cuối chỉ có một Phật địa là tánh Viên Giác.
Ở trong đó mà tu thì luôn luôn là Thường Lạc Ngã Tịnh. Như ở trong tánh vàng thì cái gì chẳng phải là vàng?
---o0o---
Trích: "Kinh Viên Giác Lược Giảng"
Giảng giải: Đương Đạo
Nhà Xuất Bản: Thiện Tri Thức, 2015
Ảnh: Nguồn internet