NGUYÊN NHÂN CỦA RỐI LOẠN VÀ KHÔNG HÀI LÒNG TRONG ĐỜI SỐNG - LAMA MIPHAM - YÊN TĨNH VÀ TRONG SÁNG

NGUYÊN NHÂN CỦA RỐI LOẠN VÀ KHÔNG HÀI LÒNG TRONG ĐỜI SỐNG
LAMA MIPHAM - YÊN TĨNH VÀ TRONG SÁNG
Dịch từ Tạng ngữ với bình giảng của Tarthang Tulku
Người dịch: Trùng Hưng, -NXB. Thiện Tri Thức, 2004
Ảnh: nguồn internet
-------o0o--------



 

Nguyên nhân của sự không hài lòng, những khuyết điểm, những bất hạnh và những lo âu của chúng ta không phải ở bên ngoài. Nó phải được tìm thấy ở bên trong.
NGUYÊN NHÂN CỦA RỐI LOẠN VÀ KHÔNG HÀI LÒNG TRONG ĐỜI SỐNG - LAMA MIPHAM - YÊN TĨNH VÀ TRONG SÁNG

Nguyên nhân của sự không hài lòng, những khuyết điểm, những bất hạnh và những lo âu của chúng ta không phải ở bên ngoài. Nó phải được tìm thấy ở bên trong. Sự rối loạn của xung đột xúc cảm do những thất thường làm méo mó của tâm là chướng ngại chính yếu để hiểu Sanh tử là Niết bàn, Kỷ luật của tâm, tập trung nó trên mỗi khoảnh khắc của tri giác dẫn đến quán chiếu vào bản tánh và vận hành của nó. Như vậy, rối loạn xúc cảm được loại bỏ.

Chân lý của khổ được diễn tả trong sự nhận biết sự không thỏa mãn, không thực hiện được sự toàn thiện bẩm sinh của chúng ta, và những khó khăn gặp phải trong đời sống. Chân lý nguyên nhân của khổ được biểu lộ trong sự nhận biết bản chất che ám của phiền não và tiến trình tâm thức làm nó sanh khởi. Chân lý của diệt dứt khổ được khám phá ở cuối con đường, con đường này bắt đầu với pháp môn tịnh hóa do khảo sát và chiêm nghiệm của tâm và dẫn đến chánh niệm.

Tấm màn phiền não ngăn che sự trong sáng của tâm. Danh từ phiền não cần được hiểu theo nghĩa rộng nhất. Nó ám chỉ những lực lượng xúc tình nhuộm màu cái tâm bằng một sức nặng tối tăm của mê mờ rối loạn. Nó sản sanh ra một cái nhìn cay đắng. Nó luôn luôn đi cùng với đau đớn tâm trí. Truyền thông phân biệt sáu âm sắc phiền não, mỗi cái do một xúc cảm riêng biệt ngự trị. Cái thứ nhất là ngu ngơ, một trạng thái rối loạn, mê mờ và vô minh. Cái thứ hai là tham, từ lạc thú hấp dẫn cho đến dục vọng thể xác mãnh liệt. Cái thứ ba là ghét, ác cảm với những đối tượng đe dọa, sợ hãi và điên cuồng hoang tưởng. Cái thứ tư là kiêu căng ích kỷ, hạn hẹp quy ngã và hiếu chiến. Cái thứ năm là lập lờ khiến không xác quyết, tạo ra nghi ngờ và sợ hãi. Cái thứ sáu là tạo tác ý niệm trừu tượng không dính dáng gì với tri giác trực tiếp. Những nhánh nhóc của sáu cái này biểu thị toàn bộ cung bậc của phiền não, ngăn chặn sự khai triển của lý tưởng Bồ tát. Phiền não tham dục, nó là sự biểu lộ của bản năng thú vật muốn giao hợp và nó muốn sản sinh ra cái gì từ sự thất vọng cay đắng đến một ảo tưởng của xuất thần, chỉ là một hình thức phiền não mà bản văn ám chỉ. Như những âm sắc cảm nhận khác của phiền não, nó có đặc trưng là một xung động bốc cao nhằm đạt được một trạng thái không hiện hữu trong khoảnh khắc hiện tại. Bất kỳ sự đứt đoạn nào trong hành động giao phối đều có khả năng gây ra tức giận dữ dội. Xúc tình là một nỗ lực trọn vẹn đạt đến cái đang không hiện hữu. Sự không thỏa mãn với trạng thái tâm như nó đang là, là điều kiện cần thiết có trước cho tham dục. Ghen ghét, thù hận, kiêu mạn - tất cả những phối hợp và dạng hình vô số của xúc tình tràn ngập trong năng lực của chúng. Khi dưới tác động của một trong những cái này, thì khó mà hiểu cái xấu là gì, nó đến từ đâu và như sao nó sanh khởi. Phiền não là sức mạnh của xúc tình, nó hủy hoại trong sáng và yên tĩnh. Mọi hình thức phiền não gắn kết trong thân tâm và là những dấu vết của những tính khí thuộc về một hình thức thấp hơn của thức. Bị cái nào trong chúng chế ngự, vẻ đẹp kỳ diệu và quý báu của kinh nghiệm trực tiếp bị sai lạc, và sự thấu hiểu con đường, dẫn từ sanh đến tái sanh và cuối cùng ra khỏi chu kỳ trở thành, bị bỏ mất.

Tấm màn của hiểu sai lầm là nền tảng của phiền não. Những quan kiến hạn hẹp về bản tánh của vũ trụ và thực thể của con người mình gây ra sự xung đột giữa cái hiện hữu thực và cái người ta muốn nó hiện hữu. Bao giờ người ta còn bận rộn với sự khác biệt bề ngoài giữa thực tại và giấc mộng, bấy giờ không thể có sự hài hòa giữa cái bên ngoài và bên trong, cái thế giới vĩ mô và thế giới vi mô. Những thành kiến ngăn chặn hành động vô tư tự phát. Không có một hiểu biết trọn vẹn về thực thể chính mình gây ra thất bại thường trực không lợi dụng được những cơ hội và khiến cho dòng chảy chảy qua một bên - hơn là xuyên qua - tâm. Như một cái tháp dựng bằng những quân bài, thành kiến sụp đổ dưới căng thẳng tinh thần (stress) để lại một khoảng không đáng sợ cần phải lấp đầy bằng bất cứ phản ứng thói quen nhiễm độc nào. Lại tạo thành quan niệm mới, mà không hiểu cái gì thật cái gì không, mơ mộng những chuyện đâu đâu tưởng tượng, suy nghĩ ước ao lại kết thành thất vọng kèm với rối loạn. Như vậy vòng đi vòng lại từ tái sanh này qua tái sanh khác, không bao giờ tìm thấy sự khuây khỏa của trong sáng yên bình, tuyệt vọng dấn sâu với nắm bắt điên cuồng những cọng rơm trong gió, chỉ có sự đau khổ mà thôi.


Những khuôn khổ phản ứng thói quen thì khó phá vỡ. Sự khó thay đổi những phản ứng vi tế và thâm căn cố đế của tâm thì lớn hơn nhiều so với phá vỡ những thói quen thô của thân như hút thuốc chẳng hạn. Dù người ta âm thầm biết rằng những thành kiến và thiên kiến nhuộm màu phản ứng và phán đoán, trừ phi thực hành hay lúc một khoảnh khắc sáng tỏ bừng sáng, còn không thì chỉ niềm tin lờ mờ có cái gì méo mó trong tâm là giữ cho nguyện vọng giải thoát được tồn tại. Sự thực hành thường xuyên những phương diện khác của thái độ lý tưởng sẽ tháo lỏng tâm khỏi những trói buộc nặng nề hơn. Với sự hiểu lớn dần về luật Nghiệp, nhân quả trong đời sống chúng ta, sương mù tan khỏi quang cảnh của tâm đủ cho một thoáng thấy vị trí của con đường. Thiền định này đặt người cầu đạo chắc chắn trên con đường.
-------o0o-------

Bài viết liên quan