NHẬN BIẾT: THIỀN ĐỊNH HỢP NHẤT NGÀY VÀ ĐÊM - DUDJOM RINPOCHE - TIA SÉT ĐÁNH CỦA DUDJOM RINPOCHE MỘT TÔN VINH THỊ KIẾN TỊNH QUANG TRONG TREKCHO ĐẠI TOÀN THIỆN

NHẬN BIẾT: THIỀN ĐỊNH HỢP NHẤT NGÀY VÀ ĐÊM

DUDJOM RINPOCHE - TIA SÉT ĐÁNH CỦA DUDJOM RINPOCHE  MỘT TÔN VINH THỊ KIẾN TỊNH QUANG TRONG TREKCHO ĐẠI TOÀN THIỆN

-------o0o-------

Nguyên tắc thứ nhất là ‘phát hiện bản tánh của tâm tại đây và bây giờ’. Không cần áp dụng sửa sang cải tạo cho tri giác trong hiện tại; tinh túy – bản tánh của tâm – thì đơn giản và không phức tạp; nó không thể nắm bắt hay tìm hiểu.
NHẬN BIẾT: THIỀN ĐỊNH HỢP NHẤT NGÀY VÀ ĐÊM - DUDJOM RINPOCHE - TIA SÉT ĐÁNH CỦA DUDJOM RINPOCHE MỘT TÔN VINH THỊ KIẾN TỊNH QUANG TRONG TREKCHO ĐẠI TOÀN THIỆN

Phương diện thứ hai của trekcho diễn tả kinh nghiệm có được trong hai mươi bốn giờ một ngày nơi đó không có phân biệt giữa ngày và đêm.

Phần thứ nhất khai triển kinh nghiệm bản tánh của tâm, và phần thứ hai, phát hiện trực tiếp tinh túy trần trụi.

1. Kinh nghiệm ban đầu Bản tánh của Tâm

Do ba điểm rõ ràng, chính xác, chúng ta nhận biết hiện diện nội tại vốn sẵn là pháp thân nguyên sơ:

(i). Nguyên tắc thứ nhất là ‘phát hiện bản tánh của tâm tại đây và bây giờ’. Không cần áp dụng sửa sang cải tạo cho tri giác trong hiện tại; tinh túy – bản tánh của tâm – thì đơn giản và không phức tạp; nó không thể nắm bắt hay tìm hiểu. Không có cái gì đặc biệt, không có cái gì có thể được nhận dạng trong hiện diện thuần túy. Trong tánh giác nguyên sơ tự – sanh khởi của tánh Không và ánh sáng (sắc tướng ánh sáng trống không), rạng rỡ, trong suốt, và bất biến, chúng ta tìm thấy cách thiền định pháp thân bổn nguyên thanh tịnh. Thiền định như vậy cũng hiện diện, tại đây và bây giờ, luôn luôn hoàn toàn nội tại trong tư tưởng của thức. Nó được nhân cách hóa như là Dozje Zhonnu – Vajra Kilaya như là Con Đường.

(ii). Cái thứ hai của ba điểm rõ ràng chính xác là duy trì điểm đơn nhất. Chúng ta an trụ bất động trong pháp thân, với một tâm sở thoát khỏi quá khứ, hiện tại và tương lai, chỉ để cho khoảnh khắc nội tại vốn có. Ở đây, nhớ tưởng và phân tích quá khứ bị cấm đoán và tương lai không mở ra. Như trầm tích cặn bã trong nước, khoảnh khắc hiện tại của tri giác bình thường được rửa sạch khỏi bình luận giải thích, cả tích cực lẫn tiêu cực, và hiện diện thanh tịnh là tính sáng tỏ rạng rỡ. Trong thể trạng này, mọi tập trung mạnh mẽ bị suy yếu, và xao lãng lơ đãng bị ngăn chặn, khi ấy hiện diện thanh tịnh thuần túy bình thường (tánh giác rigpa), mở trống, trong suốt, nguyên sơ và rạng rỡ, đảm đương vị trí đúng đắn của nó.

(iii). Cái thứ ba của ba điểm rõ ràng chính xác là tự tin vào giải thoát chắc chắn. Tự mình đồng nhất với tính sáng tỏ không khái niệm, không thể định nghĩa, giống như nước trong suốt của một hồ tĩnh lặng, khi tri giác giác quan ôm lấy một đối tượng, đồng thời với sự sanh khởi của nó, nó rơi lại vào bản tánh căn bản, không hợp tạo của nó; tự nhiên sanh khởi và tự nhiên giải thoát, nó tan biến giống như những gợn sóng trong hồ tan thành nước lặng. Trong cách này, hoạt động tâm thức, nhớ tưởng và ý tưởng lan man, tan biến không dấu vết; bất cứ cái gì xuất hiện lập tức tan vào nền tảng của sự sanh khởi của nó: đây là tự - giải thoát không có nguyên nhân. Không làm gì cả, trong nghĩa Dzogchen của câu, giải thoát xảy ra tự nó; tự tin vào giải thoát được thiết lập một cách không chủ ý.

2. Nhận biết thường xuyên Tinh túy Trần trụi 

Phần thứ hai của kinh nghiệm thiền định hai mươi bốn giờ một ngày, diễn tả sự phát hiện trực tiếp tinh túy trần trụi và có hai phần. Phần thứ nhất diễn tả sự phát hiện qua chuyển di ban phước theo nghi lễ, và phần thứ hai, phát hiện qua kinh nghiệm thiền định.

2a. Phần thứ nhất diễn tả phát hiện qua chuyển di ban phước theo nghi lễ. Nó bắt đầu với chuẩn bị lễ cúng tsok mở rộng và dâng cúng torma, và cầu nguyện, và các bạn, những người nhập môn, cần cúng dường mạn đà la, và dùng tư thế chính thức. Lấy vị lama đã chỉ ra bản tánh của tâm làm nền tảng của thiền định, bạn thực hành những yếu tố của nghi lễ Guru – yoga. Để bắt đầu, bạn nhận biết ngài như hiện thân của tất cả quy y, trong ngài mọi lỗi lầm nghiệp chướng đã tiêu tan, mọi phẩm tính đã hoàn thành, và mỗi nhu cầu đều được thỏa ý; bất cứ điều gì ngài làm, ngài có sự tin tưởng tuyệt đối của bạn. Bấy giờ bạn cầu nguyện: 

Bổn sư và dòng lama thiêng liêng, qua lòng bi vô lượng của các ngài, xin hãy ban phước cho tâm chúng con bằng tâm giác ngộ của các ngài, để cho tâm chúng con, vào lúc tốt lành nhất này, có thể đón nhận những ban phước của con đường trực tiếp chứng ngộ.

Bạn sẽ nghĩ những tư tưởng như vậy với sùng mộ cao nhất, ngập tràn, đến mức chảy nước mắt, và rồi đốt hương các dược thảo và hương thẳng, tấu trống damaru và chuông, với lama (nếu có ngài hiện diện) bạn tụng những câu kệ xin được ban phước:

Bậc của pháp giới bất động, Kuntuzangpo, thân huyễn hiện diện tự phát, Heruka năm vị, báo thân trọn vẹn và hoàn hảo, Vajrasattva, chúng con kêu cầu ngài! xin ban phước cho chúng con được nhận biết bản tánh của tâm. Vô số chúng dakini, hộ pháp, terton, chúng con kêu gọi các ngài! xin ban phước cho chúng con được nhận biết bản tánh của tâm.

Đến Dorje Sempa, Garab Dorje, Shri Sangha,Vua Dza, Lekyi Wongmo, Prabhaha, Pema Totreng Tsal, Khachen Za, Tsangpa Lhai Metok, Drokhen Lotsaza, Traktung Dorje Lingpa, Gyurme Ngedon Wongpo, Dudjom Drodul Lingpa,

Và Dudjom Jigdral Yeshe Dorje, tất cả đạo sư gốc và dòng truyền thừa,

chúng con kêu cầu các ngài! xin ban phước cho chúng con được nhận biết bản tánh của tâm.

Ngài, Bậc của những Bổn tôn Hung nộ, Heruka hàng phục quỷ ma,

Dorje Zhonnu, với chúng hội trong mạn đà la thiêng liêng,

Những Dakini và những Bảo hộ phát thệ, chúng con kêu cầu các ngài! xin ban phước cho chúng con được nhận biết bản tánh của tâm.

Vững tin rằng sanh tử và niết bàn là cùng thanh tịnh, hoàn thiện sự sáng tạo tự nhiên của thiền định – tự phát đơn giản, làm giàu hoạt động một cách tối ưu như là không hành động, không thêm bớt, chúng con đến hoàn tất tự phát đích thực.

Vào lúc kết thúc cầu nguyện dòng ban phước cho, vị lama với bi mẫn vô biên, tan thành ánh sáng và hòa tan vào hoa sen ngàn cánh trên đỉnh đầu của bạn. Theo cách ấy, ba kim cương của không gian vô niệm trong thân, ngữ, và tâm của lama hợp nhất không thể phá vỡ với thân, ngữ, và tâm của chính bạn. Tỉnh biết một cách buông lỏng không gian ấy, ban phước tràn đầy: ba kim cương của lama hòa với tánh giác của thân, ngữ, tâm của chính bạn; do đó những tư tưởng sanh khởi với tôn kính và thư giãn trong không gian ấy, sự hiện diện rạng rỡ chiếu sáng trong sùng kính. Bản tánh nội tại vốn sẵn chiếu sáng trong không bám chấp, tôn kính trở thành hiện diện thanh tịnh tự nhiên và hiện diện thanh tịnh ấy hòa tan vào pháp giới trống không thanh tịnh bổn nguyên vô sanh. Bạn ở lại một cách tự nhiên trong không gian ấy, không làm gì cũng không tránh hành động nào.

Đoạn trên không phải là một phần của bản văn gốc, nhưng bởi vì nó khiến làm giàu cho chứng ngộ nó đã trở thành một phần của truyền thống lama và như vậy nó có sự ban phước rất lớn.

2b. Phần thứ hai của nhận biết tinh túy trần trụi là phát hiện trực tiếp trong kinh nghiệm thiền định. Có ba phần: (i) phát hiện qua chỉ thẳng tĩnh lặng (tìm thấy chuyển động trong tĩnh lặng), (ii) phát hiện qua chỉ thẳng chuyển động (tìm thấy tĩnh lặng trong chuyển động; và (ii) phát hiện qua chỉ thẳng sự hợp nhất của tĩnh lặng và chuyển động.

(i) Chỉ thẳng Tĩnh lặng

Có chỉ ra ở đây rằng bản tánh của tâm là không nguồn gốc, trong thể trạng tự nhiên của nó không có trói buộc hay giải thoát. Sự tĩnh lặng của nền tảng hiện thể, trong đó những hiện tượng bề ngoài tan vào, được chỉ ra và được phát hiện là tâm thanh tịnh bổn nguyên.

Hãy chuẩn bị cho những đệ tử đã tập họp và nói, hãy dùng tư thế ngồi theo bảy điểm như thường lệ, và, với hơi thở của bạn thư giãn tự nhiên, nhìn tập trung cái tâm và như thế ngăn chặn sự sanh khởi của những khái niệm quá khứ và tương lai. Trong hiện diện thanh tịnh sau đó của tại đây và bây giờ, nơi quá khứ và tương lai biến mất trong Thời gian Vĩ đại, không có người có thể được biết. Như là sáng ngời vô ngại hoàn toàn tròn đủ, trong hiện diện thanh tịnh, một khác biệt vô tận của tính sáng tạo biểu lộ; hoàn toàn vượt khỏi lãnh vực trí năng của lời nói và tư tưởng, nó rạng rỡ, trong suốt, mở trống và trần trụi. Ở đây, tâm là tánh giác nguyên sơ tự hữu, pháp thân siêu vượt trí năng, và với nhận biết tức thời nó trong tại đây và bây giờ, chúng ta nghỉ ngơi yên tĩnh trong sự thư thái vô biên như bầu trời.

Chỉ ngồi giống như thế, tiến trình tư tưởng khi có khi không giảm sút một cách căn bản, và hoạt động tâm thức sanh khởi như trò chơi của sắc tướng ánh sáng vô niệm thú vị của tánh giác nguyên sơ. Ở đây, thể trạng tự nhiên của chúng ta siêu vượt sự phân biệt giữa thiền định và hậu thiền định, giữa ngày và đêm, giữa những con đường nguy hiểm của đoạn kiến và thường kiến, giữa hành động cho và nhận, và giữa thực hành thiền định và mục đích của nó, và chúng ta vượt băng qua vào tâm vô niệm thanh tịnh nguyên sơ. Tantra Âm thanh Bí mật (Sang ba Sgra) định nghĩa pháp thân như thế này:

Trong khoảnh khắc hiện tại của thức,

không có tư tưởng quá khứ hay tương lai, 

mở trống, trong suốt và sáng ngời, 

chúng ta nhận biết pháp thân bốn phần.

(ii) Chỉ thẳng Chuyển động

Với chắc chắn rằng tính sáng tạo nở hoa không gặp chướng ngại nào, những hình tướng sanh khởi không ngừng, chỉ ra ở đây rằng mọi chuyển động vốn giải thoát một cách nội tại, và không cần đối trị nào.

Trong bản tánh của tâm, vô niệm và trong sáng, sự diễn xuất sáng tạo, đầy đủ tỉnh biết, vô ngại, khởi lên và chìm lặng; như thế, những hình tướng xuất hiện vô ngại ở bên ngoài thì thoát khỏi bất kỳ khuynh hướng nắm giữ và kiểm soát đối trị nào ở bên trong. Hiện diện thanh tịnh không tìm kiếm sửa sang hay đánh giá, nhưng thoát khỏi quá khứ và tương lai, đến và đi, một cách hoàn hảo, không dính dáng với bất kỳ sở thích hay xu hướng nào, nó là tánh giác trần trụi, tự nhiên, trống không.

Bất kể mặt một hồ nước yên bình hay nhấp nhô cỡ nào, những làn sóng của nó không bao giờ là cái gì khác với nước; cũng thế, cho phép sự sanh khởi và chìm xuống tự phát của hiện diện thanh tịnh rạng rỡ bẩm sinh, bất cứ ý tưởng nào sanh khởi, không từ chối cũng không chuyển hóa nó, chúng là trò chơi bất biến, không giảm sút của bản tánh của tâm.

Theo cách ấy, đi vào sự khác biệt vô cùng những hiện tướng được phóng chiếu của chính chúng ta, tâm vẫn bất động, thoát khỏi bám nắm, như thể những hiện tướng ấy là những sáng tạo của một nhà huyễn thuật. Như vậy, tri giác thường xuyên được đọc lướt qua, như trong tâm của một đứa bé, đến độ cảnh trí bên trong của chúng ta không còn hấp dẫn; mọi tri giác khái niệm chìm lắng một cách tự nhiên, tan vào thanh tịnh tự nhiên, như muối tan vào nước. Như có nói, 'Bất cứ cái gì xảy ra là tự – giải thoát. Âm thanh vô ngại (Thal′gyur) nói tỉ mỉ điều đó:

Bất cứ cái gì xảy ra trong hiện diện thanh tịnh thì tự – giải thoát

giống như những khoanh của con rắn tháo ra. 

Chúng ta không dựa dẫm vào, nỗ lực là thừa,

vì trong bản thể của nó, nó đã giải thoát.

(iii) Chỉ thẳng sự Hợp nhất của Tĩnh và Động

Kết luận rằng tĩnh lặng và chuyển động trong tinh túy là không thể tách lìa, chỉ thẳng rằng bất cứ cái gì sanh khởi trong một sự hợp nhất của tĩnh và động chính là hiện diện thanh tịnh trần trụi. Thân, ngữ và tâm của chúng ta để tự do và thoải mái, dù nhiều tư tưởng sanh khởi ra sao và như thế nào, sự diễn xuất sáng tạo vô ngại như vậy không tách lìa với bản tánh của tâm, và thoát khỏi phân biệt và phản ứng. Tính sáng tạo nội tại vốn sẵn và vô ngại của tĩnh lặng mở ra, bản tánh của tĩnh và động vẫn không thể chia tách, bất nhị. Nhưng, hơn nữa và quan trọng hơn, bởi vì tĩnh và động không phải là những thực thể độc lập, tách lìa nhau, khi dầm mình trong hiện diện thanh tịnh trần trụi, chúng ta tránh khỏi nguy cơ rơi vào một trong sáu cái bẫy giác quan của thức bình thường. Trong hiện diện thanh tịnh, khi biết rằng mọi tư tưởng, thô và tế, tiêu tan tức khắc khi sanh khởi, tan biến như nước đá tan vào nước, hay sương tan vào không khí, chúng ta biết điều này một cách thường trực và không thể đảo ngược là không có gì ngoài trò chơi của bản tánh của tâm. Điều kỳ diệu (Rmad byungs) diễn tả sự tiêu tan này:

Giống như những gợn sóng tan trên mặt hồ,

Những gợn sóng của tâm, tất cả những chuyển động của tâm,

tan trở lại vào nền tảng nguyên sơ.

Thế nên, khi tâm tĩnh lặng, nó trụ trong không gian căn bản, bổn nguyên; khi nó mở ra, nó sanh khởi như trò chơi của tánh giác nguyên sơ; khi tĩnh và động đồng nhất, đó là bất nhị. Trong cách này, bất cứ cái gì xảy ra, không có cái nào vượt ra khỏi sự sáng tỏ rực rỡ của bản tánh của tâm: tĩnh lặng không được thánh hóa, động không bị ngăn cấm, và tính như nhau không được tìm kiếm. Bất cứ cái gì sanh khởi không thể thoát khỏi huyễn thuật của hiện diện thanh tịnh (tánh giác).

Và trong toát yếu, một bản văn Dzogchen tuyên bố:

Phật thanh tịnh không tỳ vết,

hiện diện vốn sẵn, pháp thân bất biến

sáng tỏ, rạng rỡ, mở trống,

con giống như một bầu trời mùa thu không mây,

con bất động như một trái núi,

con trong suốt như một hồ nước,

con chính là sự bao la, như không gian. 

Tĩnh lặng một cách đơn giản, con là không gian

của hiện diện thanh tịnh;

mở ra, con là tính thanh tịnh sáng rỡ của hiện diện nội tại vốn sẵn

và rồi trong nhất thể của tĩnh và động, như một con chim bay trong bầu trời,

con phóng vút vào trời xanh của hiện diện thanh tịnh,

nơi tất cả kinh nghiệm là ánh sáng tĩnh lặng.

Như thế, để cho những sự vật như chúng là, không thay đổi cái gì, không thêm hay bớt, tính xúc cảm tiềm ẩn trong phán đoán, trong phân biệt và trong dự tính, ngừng lại. Chúng ta nhận biết rằng sự dừng lại này do sự thức dậy của tánh giác thiền định nội tại của hiện diện thanh tịnh.

Với trực giác hiện diện thanh tịnh (rigpa), nhìn chăm chú bền bỉ bất cứ cái gì sanh khởi, hoặc là tĩnh lặng hoặc rung động, sanh khởi với hoặc chấp nhận hoặc bác bỏ, tư tưởng hoặc tốt hoặc xấu, trong chính tánh giác thiền định hiện diện ấy, không bám chấp, hiện ra trần trụi và rõ ràng. Không nỗ lực, qua nguyện vọng và chú ý tự nhiên, chúng ta duy trì một dòng thiền định không dứt như vậy. Trong thiền định này, không trụ vào cái gì riêng biệt, bất kể cái gì xuất hiện, chẳng kể nó được biết như thế nào, tất cả kinh nghiệm của chúng ta sanh khởi thoát khỏi xúc cảm, phản ứng và nắm hiểu.

Những Điểm Khác

Người may mắn phước đức, với một cái hiểu khai triển tuần tự, nhận giáo huấn chỉ thẳng từ một lama, mà mọi hiểu lầm về bản tánh không thể dò của tâm đã được xóa, và duy trì sự tương tục của tỏ ngộ đi kèm theo, người ấy sẽ sớm đạt đến định thăng bằng quyết định.

Những người trí thức nôn nóng không biết điểm trọng yếu của thiền định, nhận giáo huấn chỉ thẳng từ một lama nhưng hiểu lầm nó, cần trở lại thực hành mạnh mẽ quán tưởng và vân vân. Sau khi đạt đến cấp độ cần thiết, của tiếp nhận, qua chỉ thẳng thêm, sau cùng họ có thể đạt được một số chứng ngộ nào đó. Điểm quan trọng khác cần hiểu ở giai đoạn này liên quan đến tư tưởng. Trong khi chỉ ngồi đơn giản, dù chúng ta có thể thư giãn trong thư thái, những tư tưởng có vẻ tăng nhiều, và hoặc chúng ta đang thiền định theo cách chúng ta nghĩ cần thiền định như vậy, dù trong tĩnh lặng hoạt động tâm thức vi tế xuất hiện không ngừng, chúng ta cần thấu hiểu rằng mọi tư tưởng như vậy thì rõ ràng thuộc về sự tĩnh lặng vốn có sẵn bên dưới. Ở điểm này, khi những khái niệm vi tế không ngừng, khi tư tưởng khái niệm không thể chống lại, hãy để nhận thức bình thường trôi chảy tự do đến một cực điểm, đến độ cuối cùng nó mất động lượng, chúng ta có thể thấy mình ở trong tĩnh lặng, nơi chúng ta có thể nghỉ ngơi.

Giống như một con chim biển bay vòng quanh một chiếc tàu trên biển,

không ngừng, chúng ta đi vòng đi vòng trước khi cuối cùng đậu lại.

Hơn nữa, khi hôn trầm hay trầm cảm thống trị, hãy thở mạnh không khí ‘chết' ra, siết lại tư thế, đưa cao cái nhìn, phá vỡ sự tự ám ảnh (chấp ngã) và cho phép hiện diện thanh tịnh có quyền tự do. Khi kích động, hãy hạ thấp cái nhìn, thư giãn thân, thả mí mắt cho thêm tối, không làm gì cả và nghỉ ngơi tự nhiên.

Cuối cùng, đôi khi trời trong sáng, bạn có thể xoay lưng lại mặt trời và nhìn chăm chú vào bầu trời trống không. Định vào bầu trời trong sáng bên ngoài tượng trưng và gợi ra bầu trời thanh tịnh bên trong của nhận thức, trong đó lập tức chúng ta tìm thấy bản tánh của tâm, bầu trời bí mật. Trong sự tỏa sáng trống không của bản tánh của tâm có bầu trời bí mật của tịnh quang căn bản, siêu vượt khỏi mọi biên giới, xác định và định nghĩa.

-------o0o-------

Tác giả: DUDJOM RINPOCHE

Trích: TIA SÉT ĐÁNH CỦA DUDJOM RINPOCHE - MỘT TÔN VINH THỊ KIẾN TỊNH QUANG TRONG TREKCHO ĐẠI TOÀN THIỆN

Keith Dowman dịch và bình giảng

NXB Thiện Tri Thức năm 2025

Ảnh nguồn internet.

Bài viết liên quan