NHẬN RA BẢN TÁNH CỦA TÂM CHUYỂN ĐỘNG HAY TÂM NGHĨ TƯỞNG - KARMAPA THỨ CHÍN WANGCHUK DORJE - ĐẠI ẤN THIỀN XÓA TAN BÓNG TỐI CỦA VÔ MINH

NHẬN RA BẢN TÁNH CỦA TÂM CHUYỂN ĐỘNG HAY TÂM NGHĨ TƯỞNG

ĐẠI ẤN THIỀN XÓA TAN BÓNG TỐI CỦA VÔ MINH - KARMAPA THỨ CHÍN WANGCHUK DORJE

-------o0o-------

Cách thứ hai nhìn vào bản tánh của tâm chuyển động hay tâm nghĩ tưởng làm cắt đứt gốc rễ của vô minh. Có hai điểm về việc này: (1) được giới thiệu vào tâm vô niệm và (2) được giới thiệu vào tâm chuyển động hay những tư tưởng.
NHẬN RA BẢN TÁNH CỦA TÂM CHUYỂN ĐỘNG HAY TÂM NGHĨ TƯỞNG - KARMAPA THỨ CHÍN WANGCHUK DORJE - ĐẠI ẤN THIỀN XÓA TAN BÓNG TỐI CỦA VÔ MINH

Cách thứ hai nhìn vào bản tánh của tâm chuyển động hay tâm nghĩ tưởng làm cắt đứt gốc rễ của vô minh. Có hai điểm về việc này: (1) được giới thiệu vào tâm vô niệm và (2) được giới thiệu vào tâm chuyển động hay những tư tưởng. Cái thứ hai nói đến sự giới thiệu vào tâm chuyển động khi một tư tưởng đã khởi lên hay con làm cho một tư tưởng khởi lên.

Điểm thứ nhất như sau. Con đã nhìn vào tâm nguyên sơ, sáng tỏ, rực rỡ, vô niệm và an định, nó là một tánh tỉnh giác thoát khỏi hôn trầm và dao động. Con biết rằng bản tánh của tâm ấy không sanh không diệt, nhưng con không nghĩ một cách ý niệm, “Nó không sanh không diệt, không màu, không dạng…” Làm như vậy là sự quán chiếu thấu suốt vào tâm vô niệm.

Ý niệm hóa về vô tự tánh của trạng thái vô niệm của tâm là rơi vào một biên kiến làm cho vô tự tánh biến thành một “vật”.

Về điểm thứ hai, nếu con nói rằng mọi tư tưởng vốn là tánh Không không sanh không diệt, tức là con đã thấy tánh Không theo lối văn tự (và rơi vào chấp đoạn). Chúng thực là một sự sống động linh hoạt không lưu lại dấu vết, chúng không có sanh, có trụ, có diệt và không thể ý niệm như là màu sắc gì, hình dạng gì… Thấu hiểu rõ điều này là con đã khai triển được một ít hiểu biết. Hơn nữa, con phải nhận biết rằng chúng không thể nhận dạng như cái này hay cái kia và như thế mà không có suy nghĩ ý niệm, “Chúng không thể nhận dạng như thế này thế kia.” Và không có một bám trước hay mâu thuẫn nào (trong tâm con giữa những tư tưởng vừa là sống động và trống không, con phải nhận biết) rằng những tư tưởng ngay khi khởi lên tức là lặng dứt, cả hai việc đó rõ ràng là đồng thời (như hình vẽ trên mặt nước). Thêm nữa, con phải có sự quán chiếu rằng không có chút khác biệt nhỏ nhất nào giữa những tư tưởng và đối tượng của tư tưởng, giữa tâm khi an định và tâm khi chuyển động, giữa tâm quá khứ và tâm hiện tại, giữa tư tưởng quá khứ và tư tưởng hiện tại… Chúng đều là tánh giác sáng rỡ và trong suốt.

Khi con khởi ra một tư tưởng hay khi một tư tưởng tan biến, đó không phải là nó trở về tánh Không sáng tỏ. Hơn nữa, tư tưởng ngay khi đang khởi tự thân nó là tánh Không sáng tỏ. Khi con chứng ngộ hay có được cái quán chiếu này, bấy giờ con đã nhận ra bản tánh của tư tưởng.

Không có một chút khác biệt dù nhỏ nhất nào giữa trạng thái vô niệm và trạng thái quán chiếu chân thật vào sự kiện rằng những tư tưởng chuyển động, tâm an định và bản tánh của bản thân những tư tưởng cả ba đều trống rỗng, sáng tỏ và rạng ngời. Cho hai trạng thái đó khác biệt là một nhận xét của tâm thức chưa nhận ra chúng.

Trước kia, khi con chưa nhận ra bản tánh của những tư tưởng, con không thể đem chúng vào trong thiền định của con. Đó là vô minh. Nhưng giờ đây con đã nhận biết chúng, con có thể thiền định về chính những tư tưởng và như thế chúng trở thành tánh giác hay tánh giác nguyên sơ. Bây giờ con có thể lấy những tư tưởng làm gốc rễ của thiền định. Trước kia tự những tư tưởng che tối chính chúng, và bởi thế con không thấy được chúng.

Chúng quá dày đục, chúng che tối tự tánh của chúng. Nhưng bây giờ chúng trong suốt; bạn có thể nhìn suốt qua chúng.

Thiền định hiện giờ này về những tư tưởng ý niệm được biết là đặc trưng hơn một cách đặc biệt so với thiền định về trạng thái vô niệm. Bởi thế bất cứ tư tưởng nào khởi lên, con cần xem nó như cái để nhận biết. Khi những tư tưởng không khởi, chúng ở trong trạng thái không sanh khởi này. Không cần gì gom chúng trở lại. Do đó, không lưu tâm gì đến hy vọng hay lo lắng, hãy đem chính những tư tưởng của con vào trong bản tánh của thiền định của con.

Những tư tưởng không gì khác hơn là tâm. Tâm này, rỗng lặng tự nhiên, là Pháp thân, bản tánh rỗng sáng, trong trẻo, trong đó không có cái gì được làm cho rỗng lặng hay cái gì làm cho rỗng lặng. Khi con đạt được cái quán chiếu này, lúc ấy con đã có sự quán chiếu thấu suốt vào tánh của tư tưởng. Con đã nhận biết Pháp Thân, nó là sự hợp nhất của Sáng Tỏ và Tánh Không.

Như thế bạn phải chứng ngộ rằng những tư tưởng chính là tánh Không sáng tỏ, khởi và lặng ngay cùng lúc, như một dấu tay trên mặt nước. Chúng không có kéo dài (trụ) và không có khoảng cách thời gian giữa khởi và lặng. Cũng không có không gian giữa hai tư tưởng như thể chúng là hai vật tách lìa nhau bởi khoảng không gian. Đây là cái gọi là “tự nhiên tịch diệt”, dịch theo nghĩa đen là “tự-giải thoát”.

Tóm lại, con phải nhận biết bất kỳ tư tưởng sanh khởi nào. Nhất tâm và không tạo tác, hãy chú tâm ngay vào thực tánh của chúng, không phóng dật, và tu hành trạng thái này. Đây là sự giới thiệu, khai thị thực sự thứ hai bản tánh của tâm bởi vị Thầy. Tuy nhiên, nhận ra bản tánh như vậy chưa đủ. Con phải hộ trì sự tương tục (của cái biết này). Đó là điểm thứ sáu của thiền quán.

-------o0o-------

Trích “Đại Ấn Thiền Xóa Tan Bóng Tối Của Vô Minh”

Tác giả: Karmapa Wangchuk Dorje

Người dịch: Đương Đạo

NXB Thiện Tri Thức, 2001.

Bài viết liên quan