NIỆM TƯỞNG HAY CẢM XÚC NÀO SINH KHỞI THÌ NÓ KHÔNG KHÁC GÌ TRÍ TUỆ PHÁP THÂN - NGỌN ĐÈN TRÍ HUỆ TỎA KHẮP - GARCHEN RINPOCHE

NIỆM TƯỞNG HAY CẢM XÚC NÀO SINH KHỞI THÌ NÓ KHÔNG KHÁC GÌ TRÍ TUỆ PHÁP THÂN

NGỌN ĐÈN TRÍ HUỆ TỎA KHẮP - GARCHEN RINPOCHE

–––––o0o–––––

Khi chúng ta chứng ngộ được bản tâm thì tất cả những niệm tưởng ấy không còn sự vững chắc như vẻ bề ngoài của chúng và khi đó thì chúng không thể tạo ra đau khổ được nữa.
NIỆM TƯỞNG HAY CẢM XÚC NÀO SINH KHỞI THÌ NÓ KHÔNG KHÁC GÌ TRÍ TUỆ PHÁP THÂN - NGỌN ĐÈN TRÍ HUỆ TỎA KHẮP - GARCHEN RINPOCHE

Bản văn nói tiếp:

Vì vậy, bất cứ niệm tưởng hay cảm xúc nào sinh khởi thì nó không khác gì trí tuệ Pháp thân, nhưng bản tánh của những niệm tưởng này, thần lực tự nhiên hay sự phô diễn tự nhiên này, là tánh quang minh đích thực của nền tảng Pháp thân.

Khi niệm tưởng hay cảm xúc sinh khởi thì thật sự chúng không khác với bản tánh của Pháp thân, không khác với bản tánh của tâm. Chúng chỉ là sự phô diễn hay năng lượng sinh động của bản tâm. Nó giống như ví dụ về một cây cổ thụ – từ một thân cây to duy nhất có nhiều cành và lá mọc ra. Tương tự như thế, xuất phát từ bản tâm, tất cả các niệm tưởng và cảm xúc sinh khởi. Một ví dụ khác cũng hay được đưa ra là đại dương và các con sóng – các con sóng không khác với đại dương. Nếu chúng ta có thể nhận ra được điều đó – nhận ra rằng cũng giống như các con sóng không khác biệt với đại dương – thì mọi niệm tưởng cũng chỉ là sự hiển lộ, là sự phô diễn sinh động của bản tâm, và chúng không khác với bản tâm. Nếu chúng ta không thể nhận nhận biết điều đó và không nhận biết bản tánh của chúng thì đó là sanh tử. Nhưng nếu chúng ta có thể nhận biết được điều đó thì Pháp thân trở nên sáng tỏ; đó là sự chứng ngộ và thấy khuôn mặt của Pháp thân.

Chúng ta có nền tảng tịnh quang này, “tịnh quang của nền tảng Pháp thân”. Tịnh quang này là nền tảng của chúng ta, hiện diện và an trụ nội tại. Tất cả mọi niệm tưởng và hiện tượng biểu lộ từ bản tâm, từ nền tảng tịnh quang này. Chúng không khác với bản tâm, không khác với nền tảng tịnh quang, cũng giống như tất cả các con sóng khởi sinh từ đại dương; mọi con sóng được sinh ra từ đại dương nhưng chúng không bao giờ tách rời đại dương. Vào khoảnh khắc chúng ta làm cho nó thành thứ khác biệt – tức là khi cảm xúc hủy hoại sinh khởi và chúng ta cho nó là gì đó khác biệt hay xem nó như thứ tách biệt với bản tâm của mình – thì vào khoảnh khắc đó sẽ có bám chấp, và vì thế tất cả các cảm xúc tiêu cực khác – như ghét bỏ, bám luyến v.v. - sinh khởi. Khi bạn đồng nhất mình với những niệm tưởng và cảm xúc ấy, hay khi bạn tách chúng ra thành thứ khác biệt với tâm, tức là khi ấy bạn không nhận ra bản tánh của tất cả những niệm tưởng và cảm xúc hủy hoại, rằng chúng không khác với nền tảng tịnh quang, không khác với bản tâm. Cũng giống như ví dụ của con sóng và đại dương, đây là ví dụ đến từ đức Milarepa.

Khi bạn nhận biết nền tảng tịnh quang này thì đó là cái được gọi là “tịnh quang mẹ hiện diện như là nền tảng”. Việc chứng ngộ được chân tánh của mình – là cái thấy về tịnh quang tự nhận biết đã được Đạo sư giới thiệu từ trước – thì được gọi là “tịnh quang con đường của thực hành”. Duy trì trong trạng thái tự nhiên mà ở đó cả hai – tịnh quang nền tảng và tịnh quang con đường – là bất khả phân, thì gọi là “hội ngộ của tịnh quang mẹ và tịnh quang con”. “Khi ấy tịnh quang mẹ và tịnh quang con, đã quen thuộc, sẽ hợp nhất.”

Ví dụ về cuộc hội ngộ giữa mẹ và con được sử dụng ở đây để chỉ bày sự gặp gỡ với tịnh quang của Pháp thân có ở bên trong chúng ta nhưng chúng ta chưa nhận ra được – chưa nhận ra được Tịnh Quang Mẹ hiện diện như là nền tảng. Nó giống như người mẹ bởi vì chúng ta ai cũng có chân tánh đó hiện hữu bên trong mình nhưng lại không nhận biết được. Nương nhờ vào vị Thầy, khi Thầy giới thiệu cho chúng ta về bản tánh chân thật ấy, chúng ta nhận biết được nó. Đây là cái mà chúng ta gọi là Tịnh Quang Con.

Việc sử dụng ví dụ mẹ và con là rất ý nghĩa. Khi đứa con xa mẹ, nó trải nghiệm rất nhiều khổ đau. Đứa bé khi bị tách lìa khỏi mẹ sẽ kinh nghiệm khó khăn và đau khổ. Cũng tương tự như thế, như chúng ta nói, chúng ta làm cho những niệm tưởng trở nên cứng đặc. Khi những niệm tưởng ấy ở trong chính chúng thì cái thấy về sự hiện hữu có thực (rangyupa) xuất hiện, và chúng ta gán một mức độ tin cậy cho những niệm tưởng khởi sinh trong tâm. Bấy giờ, chúng ta thấy mình lang thang trong khắp nẻo nơi sáu cõi luân hồi và trải nghiệm xiết bao đau khổ. Nó cũng tương tự như ví dụ ở trên. Nhưng khi chúng ta chứng ngộ được bản tâm thì cũng như đứa con tìm lại được mẹ.

Khi chúng ta chứng ngộ được bản tâm thì tất cả những niệm tưởng ấy không còn sự vững chắc như vẻ bề ngoài của chúng và khi đó thì chúng không thể tạo ra đau khổ được nữa.

Tịnh quang mẹ và tịnh quang con không phải là hai – chỉ có một tánh giác mà chúng ta hoặc nhận biết, hoặc không nhận biết. Như đã nói từ trước, nó giống như một người duy nhất. Nếu thức phóng chiếu ra bên ngoài thì nó tham gia vào mọi hoạt động của thế gian. Nó đã luôn luôn làm như thế từ vô thủy vô chung trong luân hồi cho đến tận bây giờ. Nếu thức ấy phóng ra bên ngoài, bám chấp nhị nguyên vào ta-người, và đó là gốc rễ của luân hồi. Khi bạn quay vào trong và nhìn vào cái tôi, bạn sẽ không tìm ra được nó. Đức Phật đã dạy rằng chúng sinh thật sai lầm đi bám chấp vào bản ngã trong khi thật ra không có bản ngã. Khi bạn nhìn vào chân tánh của chính mình thì chẳng nhìn thấy được gì hết. Nó không thể diễn tả, siêu vượt ngôn từ và suy nghĩ. “Tôi” mà bạn bám chấp vào ở đâu? Bạn không thể tìm ra nó ở đâu cả; nó không tồn tại. Nó không có màu sắc, không có hình tướng, nó không đến từ nơi nào cả, vào khoảnh khắc này nó không ở đâu và cũng không đi về nơi đâu. Đơn giản là bạn không thể tìm thấy nó. Vì thế nó như hư không. (Một số người có thể nghĩ rằng, “nếu không có bản ngã thì chẳng có gì thật sự tồn tại. Nghiệp v.v. cũng không tồn tại”, và người ta có thể bị rơi vào tà kiến chấp đoạn diệt). Để nhận biết nó bạn phải loại trừ chấp ngã - loại trừ việc coi rằng có một bản ngã thực sự. Bạn nên nhìn vào tâm mình và thấy ra chân tánh của nó. Chân tánh này không phải chỉ là “hư vô” mà đó là tánh giác nhận biết sáng tỏ. Khi bạn nhìn vào tâm mình thì chẳng có gì được nhìn thấy ngoài tánh giác sáng tỏ. Vì thế, Đại Thủ Ấn Bên Bờ Sông Hằng (The Ganges Mahamudra) nói rằng, khi bạn nhìn vào tâm mình và không nhìn thấy gì cả thì đó là cái thấy tối thượng.

Theo cách này hãy luôn luôn nhắc nhở mình về cái thấy – đó là quang minh tự nhận biết chính nó – và hãy nghỉ ngơi trong trạng thái đó. Cho dù thế nào thì bạn cũng không nên khẳng định hay phủ định, không nên chấp nhận hay chối bỏ các niệm tưởng hay cảm xúc, chúng là năng lượng tự nhiên của tánh giác. “Nghỉ ngơi trong sự hiện diện của tánh giác vượt ngoài diễn tả” là điểm thực sự cốt tủy.

–––––o0o–––––

Trích “Ngọn Đèn Trí Huệ Tỏa Khắp"

Trần Thị Lan Anh dịch

Hiệu đính: Ban dịch thuật Thiện Tri Thức, 5/2019.

 

Bài viết liên quan