PHẨM CHẤT CỦA MỘT VỊ THẦY TÂM LINH LÀ NGÀI SỞ HỮU MỘT DÒNG TRUYỀN THỪA - TRÍCH: MỘT CON ĐƯỜNG THÊNH THANG TỚI TỰ DO - KARMA CHAGME

PHẨM CHẤT CỦA MỘT VỊ THẦY TÂM LINH LÀ NGÀI SỞ HỮU MỘT DÒNG TRUYỀN THỪA

TRÍCH: MỘT CON ĐƯỜNG THÊNH THANG TỚI TỰ DO - KARMA CHAGME

VỚI LỜI BÌNH GIẢNG CỦA GYATRUL RINPOCHE

“Những hướng dẫn thực hành về sự hội nhập của Mahamudra và Atiyoga”

B. Alan Wallace chuyển ngữ sang tiếng Anh. Bản quyền 2009, của NXB Snow Lion.

Người dịch: Hoàng Lan – NXB Thiện Tri Thức

---o0o---

Văn bản Hai Mươi Giới Luật viết:Hãy chấp nhận một vị thầy tâm linh - người an trụ trong các giới luật,Người có hiểu biết và đầy đủ phẩm tính.- Ở Tây Tạng, thỉnh thoảng người ta nhận những giới luật của Sa di tập sự hoặc trọn bộ đầy đủ của Tỳ kheo mà không biết chúng là gì, và nhiều trong số họ không bao giờ học về những giới luật này. Cho dù là thọ nhận giới luật...
PHẨM CHẤT CỦA MỘT VỊ THẦY TÂM LINH LÀ NGÀI SỞ HỮU MỘT DÒNG TRUYỀN THỪA - TRÍCH: MỘT CON ĐƯỜNG THÊNH THANG TỚI TỰ DO - KARMA CHAGME

Văn bản Hai Mươi Giới Luật viết:

Hãy chấp nhận một vị thầy tâm linh - người an trụ trong các giới luật,

Người có hiểu biết và đầy đủ phẩm tính.

- Ở Tây Tạng, thỉnh thoảng người ta nhận những giới luật của Sa di tập sự hoặc trọn bộ đầy đủ của Tỳ kheo mà không biết chúng là gì, và nhiều trong số họ không bao giờ học về những giới luật này. Cho dù là thọ nhận giới luật nào: của cư sĩ, của Sa di hoặc của Tỳ kheo, điều quan trọng là phải biết những giới luật này là gì, để bạn thực sự hiểu đến tận tinh tuý của chúng. Tương tự như vậy, việc nuôi dưỡng Bồ đề tâm nguyện dẫn đến Bồ đề tâm hạnh. Hơn nữa, thực hành Kim Cương thừa trở nên có ý nghĩa chỉ khi bạn tìm hiểu về các giai đoạn phát sinh và hoàn thiện. Tham gia vào các sự thực hành như vậy hay nhận các giới luật mà không hiểu biết khiến cho bạn trở nên khó khăn để thâm nhập vào ý nghĩa thực sự của chúng.

Trang nghiêm cho những Kinh viết:

Một vị thầy của chúng sinh tối thượng

Là người dịu dàng, không kiêu căng và muộn phiền,

Kiến thức và hiểu biết của Người sáng chói và lan toả khắp nơi nơi,

Người đi khắp mọi nơi mà không cần bất kỳ sự đền đáp vật chất nào,

Người được ban tặng Bồ đề tâm và trí huệ vĩ đại,

Người nhìn thấy sự thật, thiện xảo trong lời nói, và đầy từ bi.

Biết sự vĩ đại của một vị như vậy,

Người không còn tuyệt vọng.

Thích bày tỏ tâm tình, vứt bỏ mọi nghi ngờ,

và khám phá ra hai sự thật, Người xứng đáng để chúng ta chấp nhận.

Người được gọi là bậc thầy của chư vị Bồ Tát.

Hãy hiến dâng bản thân mình cho một người bạn tâm linh có an lạc, kính ngưỡng và hoàn toàn bình tĩnh,

Với những phẩm tính tối thượng, lòng nhiệt tình, là một kho tàng kinh điển,

Với sự giác ngộ về Chân Như và tính thiện xảo trong ngôn từ,

Một người từ bi đã loại trừ tất cả khổ đau.

- Những vị thầy vĩ đại của hiện tại và quá khứ gần đây, chẳng hạn như Đức Đạt Lai Lạt Ma, Dudjom Rinpoche, Đức Gyalwa Karmapa, và Đức Kalu Rinpoche, không bao giờ được biết đến về lòng tự hào của các vị về phẩm chất của chính mình hoặc những sự tỏ vẻ. Một vị thầy tâm linh không nên có dấu hiệu thất vọng. Không có suy nghĩ về những đền đáp vật chất, các Lạt Ma cần phục vụ nhu cầu của chúng sinh.

Nagarjuna nói:

Hãy cúng dường thân con cho người có đủ mười hai phẩm tính:

hiểu biết nhiều và trí huệ vĩ đại,

không tham luyến vật chất và tài sản,

có tinh thần thức tỉnh và tâm từ bi vĩ đại,

chịu đựng những khó khăn vất vả mà thấy rất ít đau khổ và mệt mỏi,

ban những lời khuyên thực dụng tuyệt vời, đã giải thoát khỏi con đường thế tục,

và có trí huệ, uyên bác và có những dấu hiệu của sự ấm áp.

Đức Atisha viết trong quyển sách Một Ngọn đèn trên Con đường tới Giác ngộ:

Hãy biết rằng một vị thầy tâm linh tốt là người

hiểu biết về các giới luật và nghi lễ,

Một vị thầy tâm linh là người an trụ trong các giới luật,

và là người ban những giới luật và là người từ bi.

Cá nhân tôi không có trình độ như vậy của một vị thầy tâm linh, nhưng trong thời đại mạt pháp này, hiếm mà tìm thấy một người không lầm lỗi và đã thấm nhuần những phẩm chất tuyệt vời. Vì vậy, nên dâng hiến bản thân cho một vị thầy tâm linh mà đức độ tương đương với lỗi lầm của vị ấy hoặc một người có đức tính thậm chí hơi lớn hơn lỗi lầm của người ấy. Tôn kính sự Tối thượng có viết:

Do thời mạt pháp nên những lỗi lầm và đức hạnh của một vị thầy bị lẫn lộn vào nhau,

và không có vị thầy nào mà không sai phạm,

sau khi đã xem xét kỹ lưỡng một vị thầy có đức hạnh lớn hơn,

các học trò nên dâng hiến bản thân mình cho người ấy.

- Vị thầy tâm linh không phải là những người duy nhất có thiếu sót hoặc lỗi lầm. Học trò cũng trong tình cảnh tương tự. Chúng ta phải nhận ra sai sót của chính mình và bằng cách đọc sách về Phật Pháp, chúng ta có thể học hỏi không chỉ làm thế nào để lắng nghe Phật Pháp mà còn xác định được các lỗi lầm sẽ được loại bỏ. Điều này đúng cho tất cả mọi người vì mỗi người trong chúng ta, cho dù giàu hay nghèo, từ phương Tây hoặc Đông, đang tìm kiếm sự giác ngộ. Vì vậy, chúng ta cần phải từ bỏ những lỗi lầm và tìm hiểu làm thế nào để nhận được những giáo huấn.

Tôi đã truyền dạy Phật Pháp tại Hoa Kỳ trong nhiều năm. Trong một trường trung học nơi tôi dạy, tôi thấy sinh viên ngồi với đôi chân của họ gác lên, rất ít khi lắng nghe và chơi đùa với những thứ xung quanh khác. Một mặt, bạn không thể đổ lỗi cho họ vì họ không hiểu được tầm quan trọng của những gì tôi đang dạy. Nhưng thật không may, họ không thể nhận được bất kỳ phước lành nào. Bạn không biểu lộ lòng tôn kính cho Phật Pháp hoặc cho người khác. Bạn cung kính chỉ để nhận được những lợi ích và phước lành của những lời dạy.

Đức Gampopa có nói trong Truyền thống của dòng truyền thừa thực hành như sau:

Nếu một vị thầy tâm linh thiếu giác ngộ, thì ngay cả khi các họ trò của vị thầy ấy có lòng sùng mộ và tôn kính, điều ấy cũng không mang lại lợi lạc gì. Cũng như trong việc làm tượng, dù cho đất sét có tốt như thế nào, mà khuôn không có những chỗ lồi lõm thì nó cũng không tạo hình lên một bức tượng. Nếu học trò không có lòng tôn kính và sùng mộ, thì một vị thầy giác ngộ cũng không giúp được gì. Điều này giống như là một con bò cái có sữa nhưng con bê con lại không có miệng vậy.

Một vị thầy tâm linh đầy đủ nên có không chỉ là những phẩm tính từ việc học tập, suy nghĩ, và thiền định, mà còn có cả những kinh nghiệm tâm linh là kết quả từ sự tu hành. Những phiền não của chính vị ấy đã được loại trừ như là một kết quả của sự thực hành và chứng ngộ. Ngày nay, con người có xu hướng dành nhiều thời gian làm việc trên máy tính thay vì đạt những hiểu biết nội tại của sự chứng ngộ trực tiếp. Một máy tính có thể có một lượng lớn thông tin nạp vào nó, nhưng chúng ta vẫn chưa thấy một máy tính nào đã đạt được giải thoát hay toàn tri. Bạt trừ những phiền não là thành tựu từ những gì mà việc thực hành Pháp mang lại và những gì mà một máy tính không thể đạt được. Các Đại thành tựu giả vĩ đại của Ấn Độ và Tây Tạng theo truyền thống này. Để chinh phục những phiền não của mình và đạt được trạng thái của sự giải thoát và giác ngộ, họ đã dùng chính mình để trải nghiệm Phật Pháp. Chính vì lý do này, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã quay bánh xe Pháp. Đây là con đường mà tất cả chư Phật trong quá khứ đã đi theo. Ở Tây Tạng, đặc biệt là hai mươi lăm đệ tử của Guru Padmasambhava và nhiều bậc vĩ đại của mỗi truyền thống đạt trạng thái giác ngộ của họ bằng cách thực hành theo những lời dạy.

Nếu một con bê không có vòm miệng nó sẽ không thể để bú sữa từ vú mẹ. Một ví dụ tương tự, sau khi phục vụ Đức Phật trong hai mươi lăm năm, Devadatta - Đề Bà Đạt Đa nghĩ rằng ông có những phẩm chất tương tự như Đức Phật. Ông thừa nhận rằng Đức Phật đã có bách hội nhô lên và một hào quang bao xung quanh mình. Nhưng ngoài những điều này, ông tin rằng mình ngang bằng với Đức Phật, vì vậy ông thấy không có lý do gì để tôn kính Ngài. Kết quả là ông đã tái sinh trong tình trạng khốn khổ như một ngạ quỷ. Để tránh cạm bẫy đó, chúng ta cần đức tin. Bằng sức mạnh của đức tin, chúng ta có thể loại bỏ hai loại che chướng. Thông qua sức mạnh của đức tin, cả hai hiểu biết về bản thể và hiện tượng khởi sinh. Cũng nhờ sức mạnh của đức tin mà cả hai thành tựu (siddhi) thông thường và siêu thế gian biểu hiện .

Tuy nhiên, theo truyền thống chung của các giáo lý, mặc dù tôi không có những thực chứng, nếu các bạn lắng nghe với đức tin, chứng ngộ sẽ nảy sinh. Trong quá khứ, ở Nepal, có một người đàn ông thông minh, có học thức đã giết cả cha lẫn mẹ của mình. Sau đó, trong khi anh ta đang đi sang vùng khác, anh ta đã âm thầm giết chết một vị Arhat người đang sống trong một ngôi chùa bỏ hoang. Mặc áo của nạn nhân, anh ta đóng giả là vị Arhat đã chết. Mọi người đều nghĩ rằng anh ta là vị Arhat ấy, và với đức tin và lòng sùng kính, họ hỏi xin anh ta ban Pháp. Bằng cách đọc Kinh với họ và giải thích về Pháp, anh ta thu nhận được một trăm ngàn đệ tử, trong đó có cả các vị tu sĩ. Những người có duyên nghiệp tốt đã đạt quả vị Arhat, và nhiều người có tri giác siêu thế gian và những khả năng huyền bí. Có những vị đệ tử Arhat có thể nhìn bằng tri giác siêu thế gian thấy rằng vị thầy tâm linh của họ là một người lầm lỗi, và họ cố gắng để hướng dẫn anh ta. Tuy nhiên, họ đã không thành công, và anh ta đã bị đoạ xuống địa ngục. Câu chuyện này được kể dài hơn trong lịch sử Phật Pháp với tên gọi là Câu chuyện của Tỳ kheo Mahadeva.

Đức Sakya Pandita ngụ ý điều tương tự trong nhận xét của mình, "Thậm chí khi ai đó có nhiều đệ tử, không có gì bảo đảm rằng ông ấy là vị thầy tốt." Với lòng kính ngưỡng dành cho những dòng khẩu truyền và vân vân, ngay cả khi dòng truyền thừa là không thanh tịnh thì cũng không có vấn đề gì. Nếu một lỗ trên một kênh thủy lợi bị chặn ngay cả với vải quấn một cái xác chết, nước vẫn giúp ích cho cánh đồng. Nó là như thế. Đức Drogon Chopak nhận được trao truyền từ một người chăn cừu, và ông nhận được một sadhana về Sự biểu hiện toàn hảo của những tên gọi của Đức Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi từ góa phụ của một thầy cúng. Lý do ông đã làm như vậy là vì ông sợ rằng dòng dõi của những trao quyền và truyền khẩu có thể bị cắt đứt. Với suy nghĩ đó, các vị thầy tâm linh Kadam nói, "lỗi của con người không làm hỏng Pháp.”

- Một số người đánh giá cao những thành tựu của riêng mình, thậm chí tuyên bố rằng họ là hóa thân của Đức Phật. Những người như vậy thường thu hút những người đi theo, và trên thực tế, họ có thể để biểu hiện những dấu hiệu bên ngoài nào đó. Tuy nhiên, những dấu hiệu đó có thể là do những ban phước của một linh hồn ác độc.

Ví dụ, ở Tây Tạng, có một vị thầy gọi là Lạt ma Ngựa Đen. Ông nổi tiếng là chỉ với một cảm thán của từ “phat” và một cái búng ngón tay, ông đã có thể gửi thần thức của một người đến một cõi tịnh độ. Những dấu hiệu bên ngoài này là không phải do giác ngộ mà có, vì vậy khi ông qua đời, ông đã không nhập vào một cõi tịnh độ nào cả. Không lâu sau khi ông chết, một con cá khổng lồ được tìm thấy trong hồ Kokonor ở vùng Amdo của Tây Tạng. Ký sinh trùng rỉa chú cá khổng lồ từng chút một. Một Lạt ma thông tuệ nhận ra rằng con cá này, trong thực tế, là hiện thân của Lạt ma Ngựa Đen.

Trước đây, một người đàn ông nghèo đi tới Lhasa. Khi đến vùng ngoại ô của thành phố, ông dựa vào một tảng đá và ngủ một giấc ngắn. Trong khi ngủ, một tinh linh độc ác chiếm lấy thân ông ấy. Đột nhiên, ông có được những tri giác siêu thế gian và các thành tựu siddhi khác. Trong khi khám phá những khả năng của mình, ông phát hiện ra rằng ông có thể thọc chân vào đá và có thể nhào nặn đá như thể nó là bột. Một cách nhanh chóng, tin lan truyền rằng ông là một thành tựu giả.

Hiện thân trước của Tonglen Rinpoche, người thực sự có tri giác siêu thế gian, nhận ra rằng người đàn ông tội nghiệp này đã chỉ đơn giản là bị ma ám. Vì vậy, Rinpoche đã mời ông đến tu viện của mình và chào đón ông với nhiều nghi lễ và trang hoàng rực rỡ. Sau khi chào hỏi, Rinpoche đặt một tảng đá vào trong tay người đàn ông và yêu cầu ông ta chứng minh sức mạnh của mình. Trước khi ra yêu cầu này, Tonglen Rinpoche đã trừ tà cho ông. Bất kể là người đàn ông đã cố gắng để nhào đá như thế nào, không có gì xảy ra cả, và ông ta nhận ra rằng ông không có sở hữu những phẩm chất đặc biệt nào cả. Ông không còn tri giác siêu thế gian; ông không thể giảng giải Phật Pháp. Ông không có gì cả.

Sau đó, ông hỏi Rinpoche những gì đã xảy ra. Tonglen Rinpoche nói với ông rằng ông đã bị một linh hồn nhập vào, nhưng mà nó đã được đuổi đi. Khi nghe vậy, nước mắt lăn dài trên khuôn mặt của mình, ông lễ lạy trước Rinpoche và yêu cầu Ngài tư vấn.

Rinpoche nói: "Để chắc chắn rằng tất cả mọi người không mất lòng tin vào anh, tôi đề nghị anh nên nhập thất và thực hành Phật Pháp." Người đàn ông đã làm như vậy, nhưng ông đã phải bắt đầu từ giai đoạn đầu của sự thực hành, bởi vì trong thực tế ông chưa thành tựu được gì cả.

Với tất cả lòng kính ngưỡng dành cho những dòng truyền khẩu, ngay cả khi dòng truyền không thanh tịnh, đó không phải là một vấn đề. Dilgo Khyentse Rinpoche thường tìm ra và nhận bất cứ truyền khẩu nào mà Ngài nghĩ là đang trên bờ vực biến mất. Bất kể ai là người trao truyền nó. Ngài sẽ nhận lấy nó và, tiếp tục trao truyền nó, để đảm bảo rằng dòng truyền thừa ấy vẫn không gián đoạn.

Thậm chí nếu những người lắng nghe mà thiếu đức tin vào Phật Pháp, không biết làm thế nào để lắng nghe, và không hiểu được ý nghĩa, họ vẫn được hưởng lợi từ hành động chỉ đơn thuần là nghe âm thanh của Phật Pháp. Trong quá khứ, một con chó cái nghe thấy tiếng Tỳ kheo Upakuta giảng dạy Phật Pháp. Do vậy, những che chướng của nó đã suy yếu, và ngay sau khi qua đời, nó được tái sinh như một vị thần Paranirmitavasavartin. Ở Ấn Độ, một con chim bồ câu nghe một Tỳ kheo đọc Tiểu kinh Bát Nhã Ba La Mật. Do vậy, những che chướng của nó đã suy yếu, và sau khi qua đời, nó được tái sinh thành một người đàn ông. Sau đó, ông này thọ giới tu sĩ và nhớ tất cả nội dung mà ông đã nghe trước đây. Hơn nữa, một con ếch nghe một Tỳ kheo dạy Phật Pháp từ trên trời xuống, che chướng của nó đã suy yếu, và khi chết nó đã được tái sinh thành một devaputra ở cõi trời Trayastrimsa. Sau khi kiểm tra nguyên nhân dẫn tới sự tái sinh của mình, với một bông hoa trong tay, devaputra này đã đến lễ lạy trước Đức Phật. Đức Phật thốt ra một câu Pháp bắt đầu với "Tất cả các pháp hữu vi là vô thường," và thế là vị này đã thấy chân lý.

Phẩm chất căn bản, thiết yếu cần có của một vị thầy tâm linh được Naropa khẳng định, "Phẩm chất của một vị thầy tâm linh là Ngài sở hữu một dòng truyền thừa." Ý nghĩa duy nhất của Lời nói Kim Cương viết, "Có sự sâu sắc lớn lao trong tính kết nối ở trong dòng truyền thừa của Thánh Pháp." Dòng truyền thừa thực sự của sự giác ngộ Phật Pháp này, truyền phước báu, là tràng hạt không đứt đoạn của chư Phật: Đức Kim Cương Trì, Đức Tilopa, Đức Naropa, Đức Marpa, Đức Milarepa, Đức Dagpo, Đức Dusum Kyenpa, Đức Rechenpa, Đức Pomdragpa, Đức Karma Paksi, Đức Orgyenpa, Đức Rangjungwa, Đức Yungtonpa, Đức Rolpey Dorje, Đức Kacho Wangpo, Đức Dezhin Shegpa, Đức Ratnabhadra, Đức Tongwa Donden, Đức Jampal Zangpo, Đức Paljor Dondrup, Đức Chodrak Gyatso, Đức Sangye Nyenpa, Đức Mikyo Dorje, Đức Konchok Yenlak, Đức Wangchuk Dorje, và Đức Chokyi Wangchuk, người là Đức Phật Amitabha trong hình dạng con người.

Đức Chokyi Wangchuk đã trao cho tôi, Raga Asey, những giới luật Biệt giải thoát tiếp theo, giới luật của Sadi, giới luật của Tỳ Kheo, Bồ Tát Giới của Bồ đề tâm, và các hướng dẫn về rèn luyện tâm thức và các giai đoạn Kadam trên con đường thực hành trong suốt một tháng, và các hướng dẫn về Ý Nghĩa Duy Nhất trong hai tuần, những giảng giải chi tiết về sự thực hành năm nhánh. Ngoài ra, tôi nhận được rất nhiều khẩu truyền về ý nghĩa bên trong và vân vân của Năm Pháp của Đức Phật Maitreya và Nhập Trung Đạo. Nói tóm lại, tôi đã dâng hiến bản thân mình cho vị thầy tâm linh ấy trong ba năm. Cũng giống như cái thòng lọng thì có thể xấu trong khi dây kéo thì lại tốt, vì vậy [trong khi tôi là một con thuyền xấu] đây là một dòng truyền thừa tuyệt vời. Tất cả các dòng truyền thừa thực thụ khác về sự giác ngộ Phật Pháp đều được bao gồm trong dòng truyền thừa này. Đức Tilopa nghe Pháp trực tiếp từ Đức Phật Vajradhara và Vajravarahi. Bằng cách hiến dâng bản thân mình cho các vị thầy tâm linh của dòng truyền thừa Bốn Giáo Lý, Ngài đã nhận được những giáo lý về bốn loại tantra vô song. Bồ Tát Lodro Rinchen và con trai Rahula, mang tên bí mật là Dewe Gonpo, cả hai ban những lời dạy về Mahamudra cho Saraha. Sau đó, dòng truyền thừa được truyền từ Nagarjuna, Sawaripa, và Maitripa tới Marpa.

Từ Đức Manjushri và Đức Nagarjuna, dòng truyền thừa những cái thấy sâu sắc được khởi nguồn. Từ Đức Maitreya và Đức Asanga, dòng truyền thừa của các hoạt động sâu rộng bắt đầu. Từ Đức Manjushri, Đức Santideva, và Đức Serlingpa, dòng truyền thừa của việc luyện tâm bắt đầu. Tất cả đã hội nhập với nhau trong Đức Atisa. Dòng truyền thừa này đến từ Đức Dromton, Đức Gyalsey, Đức Kumche, Đức Jayulwa, Đức Gyachakri, Đức Kangkawa, và nhiều các vị khác để đến Đức Dagpo. Đó được gọi là sự kết hợp bất nhị của hai dòng suối Kadampa và Mahamudra. Nó cũng chạy từ Đức Sharawa đến Đức Dusum Kyenpa. Đức Dusum Kyenpa được nghe Dòng truyền khẩu Aro về Đại Toàn Thiện từ vị thầy tâm linh của ông là Đức Dragkarwa, vì vậy dòng truyền thừa thực sự của Đại Toàn Thiện cũng được bắt nguồn từ đó.

Đức Karma Paksi đã nhận Kinh của Ý nghĩa Tổng hợp, Tantra của Mạng lưới của Những Biểu hiện Kỳ diệu và Đại Toàn Thiện của Tâm Tối Cao từ Đức Katogpa Jampa Bum, và Ngài đã thành tựu những điều này. Các tác phẩm của Ngài viết về sự hợp nhất của Mahamudra và Atiyoga. Các Giáo huấn Cốt tủy của các Dakini được Đức Padma Ledreltsal trao cho Đức Rangjung Dorje được biết đến như là Văn Bản Vàng. Trong sáu tháng, Đức Rangjung Dorje cầu nguyện Đức Orgyen Rinpoche, người sau đó trao truyền các hướng dẫn cho Ngài một cách trực tiếp; chúng được gọi là các Văn Bản Xanh về các Giáo huấn Cốt tủy của các Dakini. Ngài đã chứng ngộ ý nghĩa của sự hợp nhất của Mahamudra và Atiyoga.

Tại vùng Ugpa, Đức Yungtonpa đã tu hành khéo léo trong các chuyên luận 3 nhánh về các sutra, các nguyện và tâm, vì vậy, cái thấy của Ngài chủ yếu là Đại Toàn Thiện. Rolpey Dorje đã có một cái thấy về Vimalamitra, người sau đó hòa tan vào trán Ngài. Kết quả là Đại Toàn Thiện biểu lộ trong Ngài, và Ngài sáng tác những bài hát và hướng dẫn tâm linh. Do đó, dòng truyền thừa thực sự của Đại Toàn Thiện cũng được tổng hợp trong dòng truyền thừa này.

Đức Rangjung Dorje đã sáng tác Xác định ba thân: Các hướng dẫn thiết yếu của Đức Từ Bi vĩ đại. Tác phẩm này tồn tại trong dòng truyền khẩu bắt nguồn từ Đức Marpa, Đức Milarepa, và Đức Dagpo. Các hướng dẫn thiết yếu của Đại thành tựu giả Maitripa được Đức Dezhin Shegpa và Đức Chodrak Gyatso nghe trực tiếp từ Đức Maitripa. Hơn nữa, Kho tàng của những thành tựu: Trăm ngàn giáo lý thực hành Mani đã được truyền dần dần từ Đức Ngadak Nyang đến Đức Rangjung Dorje. Đức Tongwa Donden nghe Kho báu của Sangye Lingpa - Những bí mật tối thượng không thể vượt hơn của Đức Từ Bi vĩ đại và Các hướng dẫn thiết yếu về sự tươi mới của tâm từ Lạt ma Sey - Yeshe Dorje. Đức Chodrak Gyatso nghe Các Tantra của những bí mật tổng hợp của Đức Avalokitesvara và Các Hướng dẫn thiết yếu của Đức Avalokitesvara từ Đức Ratna Lingpa. Đức Paljor Dondrup nghe Các hướng dẫn thiết yếu của dòng truyền thừa Palmo, Các Hướng dẫn thiết yếu của dòng truyền thừa Tsembu, và các hướng dẫn cần thiết của Bồ Tát Dawa Gyaltsen. Do đó, người ta nói rằng không hề có những quán đảnh, những khẩu truyền, hoặc những giáo lý nào ở Tây Tạng mà Ngài không nhận.

Đức Chokyi Wangchuk đã nghe Ba vòng Zhije, Hai mươi lăm bộ của Con đường và Quả, mười hai bộ của Tinh tuý Tổng hợp của Ý nghĩa Dự định, và Ba vòng của dòng truyền khẩu từ Đức Kiln-ga Namgyal Ba.

Đức Mikyo Zhap nhận giới Biệt giải thoát từ Đức Khenchen Chodrup Seng-ge, bắt nguồn từ Đức Kache Panchen. Đức Mikyo Dorje nhận được từ Đức Karma Trinley cả dòng truyền khẩu và những dòng truyền thừa giảng giải về năm luận của phép biện chứng. Đức Chokyi Wangchuk và Đức Choying Dorje nhận được Kho tàng Cầu vồng: một bài tổng hợp chung về Đại Toàn Thiện và Hướng dẫn của Bồ Tát Avalokitesvara về sự giải thoát tự nhiên khỏi những trạng thái đau khổ của sự tồn tạitừ Đức Norbu Gyenpa. Các vị cũng đã ngồi nghe toàn bộ những truyền khẩu Đại tạng kinh Phật giáo Ấn Tạng - Kangyur.

Nguồn gốc của ý nghĩa của những văn bản này được tổng hợp trong Các hướng dẫn vĩ đại về Đại dương của những nghĩa tối hậu. Do đó, để bản tổng hợp này có thể đã được trao truyền trọn vẹn, sự kết hợp của dòng truyền thừa thực thụ và dòng truyền thừa phước lành của chuyển giao được tổng hợp trong dòng truyền thừa kế tục này.

Hiện thân của Đức Tilopa, Đại thành tựu giả Masey, lần đầu tiên nhận được Sự Tĩnh lặng toàn hảo vĩ đại của các Dakini từ Đức Sangye Zhagchenpa, và sau đó, các dấu hiệu thành tựu đã xuất hiện. Sau đó, Ngài nhận được dòng khẩu truyền từ Đức Dezhin Shegpa. Sau đó, tôi, Raga Asey, nhận được từ Pháp thân Ozer Seng-ge, Đấng Giác Ngộ Lodro Dragpa, Đấng Giác Ngộ Dondrup Tsenchen, Lạt Ma tôn kính Legshe Drayang, và Mantradhara Rinpoche Tserlung Drungkyi Kiin-ga Namgyal lời giới nguyện quy y, những giới luật an trụ trong lòng sùng mộ, những giới nguyện của cư sĩ, truyền khẩu thiền định của Đức Avalokitesvara, và giáo lý được giảng giải trong suốt 18 ngày về Mahamudra. Dòng truyền thừa thực sự của tất cả những giai đoạn của hướng dẫn, xuất phát từ một dòng truyền thừa liên tục của những siddha, được tổng hợp trong đấy.

Karma Paksi mô tả dòng truyền thừa gần như sau, "Không có khác biệt nào về việc có hay không bất kỳ dòng nào khác giữa Karmapa, Người có tên tuổi nổi tiếng, và Đức Avalokitesvara. "Từ đời tái sinh thứ mười của Đức [Karmapa], tôi đã nhận được khẩu truyền bài thiền định của Đức Avalokitesvara, Guru Yoga, Mahamudra, và giới thiệu [tánh giác], và Ngài đã tiên tri rằng Min-Gyur Dorje sẽ là một bậc thầy Phật Pháp và bậc thầy của các Tàng kinh. Trong ba năm sống trong cùng một ngôi nhà, tôi được Ngài ban cho Pháp Không gian, bao gồm cả Phật quả trong lòng bàn tay: Hướng dẫn về Đại Toàn Thiện, Bảy hạt giống của Phật Pháp: Hướng dẫn tinh yếu của Đức Avalokitesvara, và vân vân. Từ Dudul Dorje tôi nhận được hướng dẫn chung về các yana và nhiều quán đảnh và khẩu truyền liên quan đến Đại Toàn Thiện. Ngài tiên đoán rằng tôi sẽ là một Đạo sư và đã ban cho tôi những pháp khí thiêng liêng được trạm khắc chữ “A". Ngài đã cho tôi nhiều lời khuyên nhiều liên quan đến tầm quan trọng của sự thực hành của riêng tôi về Đại Toàn Thiện, về việc truyền giảng cho người khác, và vân vân. Đó là những dòng truyền thừa của những hướng dẫn này.

Những quán đảnh, những truyền khẩu, và những kết nối Phật Pháp khác đến từ 49 vị thầy tâm linh, bao gồm Đức Situ Chokyi Gyaltsen, Đức Gyaltsap Dragpa Chog-yang, Lạt ma Drung Yigpa, Đức Rinchen Konchok Paljor, Đức Taglung Tashi Paldrup, Đức Drikung Konchok Trinley Namgyal, Đức Drugchen Karma Tenpel, và Đức Drubgyu Tenpa Namgyal. Các dòng truyền vô hạn, không thể diễn tả, từ từ mà tôi đã nhận được từ các vị được thể hiện rõ ràng trong giảng giải của tôi về những khẩu truyền.

Ý nghĩa tinh tuý của tất cả những điều trên được tổng hợp trong những hướng dẫn này. Về vòng Mahamudra, được tổng hợp một cách đặc biệt ở đây là Ba Kho báu của Các chứng đạo ca, Ba Kho báu của những điều kỳ diệu, Tám kho báu của Các chứng đạo ca, Bản dài và bản ngắn Sự sáng tỏ của Trí huệ nguyên sơ của Milarepa, Tràng ngọc của sự giải thoát và Mười Pháp của Dagpo, Thực hành năm nhánh của Drikung Dharmaraja, Lòng tôn kính vĩ đại của Go Tsangpa và Tóm tắt Ý nghĩa của vị bình đẳng, Một Lời của những giáo lý tinh tuý của Rangjung Dorje, Lời Giới thiệu vĩ đại của Orgyenpa, Sự hỗ trợ của Yang Gonpa, Chỉ thẳng Pháp Thân của Wangchuk Dorje, và Trăm Ngàn Giáo lý của Gyatonpa. Ý nghĩa của những khẩu truyền mà tôi đã nhận được cũng được tổng hợp trong những hướng dẫn này.

Tôi cũng đã nhận được nhiều khẩu truyền Đại Toàn Thiện từ nhiều dòng truyền thừa khác nhau, trong đó có Sự Tĩnh lặng toàn hảo vĩ đại của các Dakini, Các giáo huấn cốt tủy về không gian toả sáng, và Sự biểu hiện tự nhiên của những Hộ pháp Hung nộ và Từ hòa từ Tánh Giác; ý nghĩa của các giáo huấn này được tổng hợp tại đây. Tôi đã nhận được khẩu truyền Các hướng dẫn thiết yếu của Đức Avalokitesvara theo truyền thống Tsembu, truyền thống Palmo, và truyền thống Maitripa, Dẫn nhập ba thân của Đức Avalokitesvara Bậc Chiến Thắngsagara, những hướng dẫn vô song, siêu mật của Đức Avalokitesvara trong Sự làm tươi mới của bản thân tâm, những hướng dẫn tinh yếu trong Tantra của những bí mật tổng hợp của Đức Avalokitesvara, Trăm ngàn giáo lý thực hành Mani, và bài tổng hợp những siêu bí mật, Giải thoát tự nhiên khỏi những trạng thái đau khổ của sự tồn tại; ý nghĩa của chúng cũng được tổng hợp tại đây. Vì vậy, các khẩu truyền của những giáo lý riêng biệt không bị phân mảnh. Thay vào đó, chúng được kết nối với những dòng truyền thừa của Thánh Pháp.

Dudul Dorje cũng nói rằng tôi, Raga Asey, sẽ trở thành một trong những Đạo sư vì tôi đã nhận được nhiều kho báu bao gồm Tổng hợp trọn vẹn của Ba Gốc từ Đức Vidyadhara Longsel Nyingpo, Các giáo huấn cốt tủy về sự mở rộng sáng tỏ, và Giáo huấn cốt tủy của Vimalamitra. Ngài đã ban cho tôi văn bản của Tổng hợp trọn vẹn của Ba Gốc, những pháp khí, và một lời chúc trường thọ, và Ngài ban cho tôi những quán đảnh và khẩu truyền của tất cả các kho báu Pháp của mình. Ngài viết: "Không cần thiết phải gặp trực tiếp ta. Hãy tinh tấn thực hành và giúp giáo pháp phát triển trong những người khác." Có nhiều dấu hiệu tuyệt vời xuất hiện tại thời điểm tôi nhận được bức thư đó.

Dòng truyền thừa của những giáo pháp do các Dakini ban tặng cũng đã được trình bày trọn vẹn trong này.

Về dòng truyền thừa thực sự của những giáo lý đã được trao truyền, Đức Sachen Kiinga Nyingpo đã có một cái thấy về Đức Manjushri, người đã ban cho ông bốn giai đoạn của Pháp; và trên nền tảng đó, ông đã sáng tác Hướng dẫn buông bỏ bốn tham luyến. Tsangpa Gyarey có cái thấy về bảy vị Phật, các vị đã ban cho Ngài nhiều câu kệ. Trên cơ sở đó, Ngài sáng tác những hướng dẫn cho dòng truyền của riêng mình liên quan đến ‘duyên sanh tương thuộc’. Đức Pagmo Drupa và các vị tổ Kagyu khác phổ biến nhiều giáo lý, bao gồm cả Những giấc mơ của Bồ đề tâm, những giấc mơ Zhije, và Những giấc mơ của Hoạt động bí mật.

Mặc dù không có ai để so sánh với các Ngài, trong suốt mười ba năm mà Raga Asey đã dành để thực hành Avalokitesvara, một buổi tối, tôi đã có một thị kiến: trong không gian trước mặt tôi xuất hiện một con sư tử màu ngọc lam giống như một tập hợp của những đám mây. Cưỡi trên lưng con sư tử ấy là một con quỷ ăn thịt người đáng sợ, trần truồng, màu nâu, với răng nanh của hàm dưới vươn lên đến lông mày và răng nanh của hàm trên chạm tới ngực. Phía trên con quỷ ấy là Đức Orgyen Rinpoche, da nâu và trần truồng. Cổ tay trái của Ngài được trang sức bằng một chiếc vòng vàng sáng chói, và Ngài nắm những cánh tay trên của con quỷ ăn thịt người bằng cả hai tay của mình để nó không thể cử động. Khuôn mặt Ngài cau có, Ngài đang để lộ bộ răng của mình; và trên đầu Ngài đội một chiếc mũ hoa sen màu vàng nghệ tây. Tôi nhìn thấy Ngài một cách sống động. Sau đó, ngay khi Ngài biến mất, Ngài đặt một bản văn vào trong tay tôi. Nghĩ là mình bị ảo giác, tôi không kiểm tra nó. Khi nó xuất hiện trước mắt tôi, các trang giấy ánh sắc màu của vỏ ốc xà cừ, với những lời mở đầu viết bằng thuốc nhuộm màu đỏ, theo lối thư pháp tinh tế. Nhìn chằm chằm vào quyển sách, tôi thấy bốn dòng kim cương, đó là những lời chính của những hướng dẫn này. Sáng hôm sau, tôi đã viết chúng ra, và tôi hiểu rằng chúng tổng hợp ý nghĩa của Các hướng dẫn tinh yếu của Đức Avalokitesvara cũng như cả Mahamudra và Atiyoga. Sau đó, trong một giấc mơ, tôi gặp Đức Dong Kachopa, người đã ban cho tôi một giới thiệu về Mahamudra. Tôi tin rằng đây là một dòng truyền thừa phước lành của giáo lý được trao truyền, và chúng là những gốc rễ của những hướng dẫn này. Đó là những giải thích của những dòng truyền thừa để chứng minh nguồn gốc cao quý của Pháp này.

- Karma Chagme có thể truy tìm nguồn gốc của dòng truyền thừa mà Ngài thọ nhận, nhưng từ thời của Ngài tới nay đã là ba trăm năm. Bạn có thể thắc mắc làm thế nào mà dòng truyền thừa được tiếp tục tới tôi. Xét về những trao truyền trực tiếp, tôi nhận được những lời dạy từ ba nguồn. Trước hết, tôi nhận được những lời dạy từ Đức Sangye Gon. Đức Sangye Gon mặc quần áo vá, và khi nhìn vào Ngài, bạn sẽ nghĩ rằng Ngài chẳng có chút giác ngộ nào cả. Nhưng trên thực tế, Ngài gặp trực tiếp Đức Avalokitesvara. Ngài nói chuyện với và nhận giáo lý từ Đức Avalokitesvara như thể đó là một người khác trong cùng một phòng. Ngài đã cho nhiều lời tiên tri và liên tục đọc Om mani padme hum. Khi Ngài già đi, tóc trở nên bạc màu và răng rơi ra ngoài. Nhưng khi Ngài tiếp tục luyện tập, nếp nhăn biến mất, một bộ răng mới mọc lại, và mái tóc trở lại màu đen. Bề ngoài, Ngài vẫn trông giống như không có gì đặc biệt. Thứ hai, tôi nhận được những lời dạy từ người thầy gốc chính của tôi, Đức Natsok Rangdrol, Ngài là hoá thân giác ngộ của Đức Dudjom Rinpoche. Bạn có thể tìm hiểu thêm về Đức Natsok Rangdrol trong tiểu sử của Đức Dudjom Rinpoche và của Đức Ratna Lingpa, người giống như Đức Dudjom Rinpoche.

Thứ ba, Đức Palyul Chogtrul Rinpoche đã ban cho tôi những giáo lý này. Những câu chuyện về Palyul Chogtrul Rinpoche có thể được tìm thấy trong Một Vòng hoa của những cây như nguyện bất tử do Lạt ma Tsering - Jampal Zangpo viết. Thêm vào đó, tôi đã nhận được tất cả những trao truyền này từ Thánh Đức Penor Rinpoche.

--o0o--

Ảnh: Nguồn internet

Bài viết liên quan