PHẨM ĐỆ TỬ (PHẦN 2/2)-THỰC HÀNH CON ĐƯỜNG BỒ TÁT QUA KINH DUY MA CẬT-ĐƯƠNG ĐẠO

PHẨM ĐỆ TỬ (PHẦN 2/2)

THỰC HÀNH CON ĐƯỜNG BỒ TÁT QUA KINH DUY MA CẬT

ĐƯƠNG ĐẠO

-----oo0oo-----

Kinh điển Đại thừa nếu không đi theo trình tự Văn (nghe), Tư (tư duy), Tu (thiền định), nghĩa là không có thực hành thì chỉ là một hình thức văn chương trác tuyệt, thỏa mãn thêm cho cơ cấu vọng tưởng của tâm thức, làm tăng thêm các độc tham, sân, si, kiêu mạn, đố kỵ nơi mình.
PHẨM ĐỆ TỬ (PHẦN 2/2)-THỰC HÀNH CON ĐƯỜNG BỒ TÁT QUA KINH DUY MA CẬT-ĐƯƠNG ĐẠO

PHẨM ĐỆ TỬ (PHẦN 2/2)

THỰC HÀNH CON ĐƯỜNG BỒ TÁT QUA KINH DUY MA CẬT

ĐƯƠNG ĐẠO

-----oo0oo-----

 

PHÚ LÂU NA

Phật bảo Phú Lâu Na: “Ông đi đến thăm bệnh ông Duy Ma Cật.”

Phú Lâu Na bạch Phật rằng: “Thưa Thế Tôn! Con không kham nhận nổi việc đến thăm bệnh ông ấy. Tại sao thế? Nhớ lại trước kia, con ở trong rừng, dưới một cội cây thuyết pháp cho các tỳ kheo mới học. Lúc ấy Duy Ma Cật đến, nói với con rằng:

“Thưa ngài Phú Lâu Na! Trước nên nhập định, quán sát tâm thức của những vị này, rồi sau mới thuyết pháp. Chớ nên đem đồ ăn dơ để vào trong bát báu. Phải biết ý tưởng trong tâm các vị tỳ kheo này, chớ cho ngọc lưu ly đồng với thủy tinh. Ngài chẳng biết được căn nguyên của chúng sanh. Không nên dùng pháp Tiểu thừa mà phát khởi cho các vị ấy. Tự các vị không có tỳ vết, chớ làm thương tổn họ. Các vị muốn đi đường lớn, chớ chỉ nẻo nhỏ. Chớ lấy biển cả gộp vào dấu chân trâu. Chớ xem ánh sáng mặt trời ngang với lửa đom đóm.

 

Căn nguyên của chúng sanh là Phật tánh, cái chúng sanh vốn có mà không nhận ra (kiến), không khai triển (thiền), không sống hợp nhất được trọn vẹn (hạnh) để thành Phật, đầy đủ Trí và Bi làm lợi lạc cho khắp ba cõi khổ đau. So Phật tánh với sự giải thoát cho chính mình của vị A La Hán, “Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những gì nên làm đã làm, sau đời này sẽ không có đời sống khác nữa”, thì sự giải thoát này là nhỏ. Không nói về Đại Bi có thể làm lợi lạc cho chúng sanh đến ngày sanh tử rỗng không, chỉ nói về Trí Huệ thì: Niết bàn của Tiểu thừa là cái đối lập với sanh tử, trong khi với Đại thừa, Niết bàn là trạng thái của tâm thu rút về chính nó, trở lại cội nguồn của chính nó, trở lại sự an định vĩnh cửu của chính nó, còn sanh tử là trạng thái phóng tưởng, hoạt động, lưu xuất của tâm. Với Đại thừa, Niết bàn và sanh tử chỉ là hai trạng thái của tâm, hai phương diện của tâm, hai cách thế sinh hoạt của tâm. Phương diện tịch tĩnh của tâm và phương diện hoạt động của tâm không khác nhau; mở ra là sanh tử, thu vào là Niết bàn. Bởi thế Đại thừa nhằm đạt đến thể và dụng của tâm (tức Phật tánh), cái sanh ra và vượt khỏi sanh tử và Niết bàn, do đó tự tại cả với sanh tử và Niết bàn.

Trong sự thực hành thì cũng thế. Người tâm nhỏ thì thường chấp vào pháp môn tu, thích bám chấp vào những hạnh nhỏ và manh mún, cho đó là tất cả, mà không thấy cái tất cả là cái nền tảng pháp tánh mà mọi pháp môn, mọi hạnh nhỏ, lớn đều quy về. Do chấp như vậy, nên biến sự tu hành thành nhỏ hẹp: cho là việc tu hành chỉ nằm trong một vài công việc, chỉ có trong một số thời gian ‘đặc biệt’, trong một số không gian ‘thích hợp’. Đó là tu hành theo sự chấp tướng. Với người tâm lớn, nhằm vào pháp tánh mà tu, mà pháp tánh thì có mặt trong bất kỳ thời gian và không gian nào, cho nên lúc nào cũng là lúc tu hành, chỗ nào cũng là chỗ tu hành, miễn là không rời lìa pháp tánh ấy. Với người này, họ không bỏ pháp môn nào, không từ chối hạnh nào, nhưng tất cả các việc tu hành đó đều được đặt vào ‘bối cảnh’, vào nền tảng pháp tánh. Bởi thế mà không cho duy nhất ‘dấu chân trâu là biển lớn’, duy nhất ‘đom đóm là ánh sáng’ mà đặt dấu chân trâu dung thông với biển lớn, đom đóm dung thông với ánh sáng. Như thế mới có thể tiến bộ như Thiện Tài đồng tử trong kinh Hoa Nghiêm: tất cả pháp giới là chỗ tu hành vậy.

Với quan điểm thay vì chỉ trệ vào một vài hình tướng tu hành, mà quy tất cả vào tánh để cho sự tu hành trở thành phổ khắp như vậy, những lời của ngài Duy Ma Cật là chính xác và không có gì là ‘nặng nề’, ‘gay gắt’ cả.

 

“Ngài Phú Lâu Na! Những vị tỳ kheo này phát tâm Đại thừa đã lâu, giữa chừng quên đi ý ấy, nay sao lại lấy pháp Tiểu thừa dẫn dạy cho họ? Tôi nhìn thấy trí huệ Tiểu thừa thì cạn hẹp, như người mù không thể phân biệt căn cơ bén nhạy chậm lụt của tất cả chúng sanh.”

“Lúc ấy, Duy Ma Cật liền nhập tam muội, khiến những vị tỳ kheo ấy tự biết đời trước của mình, từng ở nơi năm trăm đức Phật vun trồng các cội đức, hồi hướng vô thượng chánh đẳng chánh giác, tức thì rỗng suốt trở lại được bổn tâm. Khi ấy các vị tỳ kheo đảnh lễ dưới chân Duy Ma Cật. Bấy giờ Duy Ma Cật nhân đó thuyết pháp khiến tất cả không còn thối chuyển nơi vô thượng chánh đẳng chánh giác.

“Con nghĩ vị Thanh Văn nào không nhìn thấy căn tánh của người thì chẳng nên thuyết pháp. Thế nên con không kham nhận đến thăm bệnh ông được.”

 

“Trở lại bổn tâm” tức là trở lại Bồ đề tâm, cả Bồ đề tâm tuyệt đối lẫn Bồ đề tâm tương đối. Nói đơn giản, Bồ đề tâm tuyệt đối là Phật tánh và Bồ đề tâm tương đối là nguyện, hạnh đạt đến Phật tánh ấy. Nguyện hạnh đạt đến Phật tánh là việc “vun trồng các cội đức”. Việc vun trồng này – Bồ đề tâm tương đối – xảy ra trong Bồ đề tâm tuyệt đối, nghĩa là vun trồng mà không vun trồng, vun trồng cội đức nơi đất vô sanh. Đó sự tu hành hợp nhất hạnh và kiến, hợp nhất Bồ đề tâm tương đối và Bồ đề tâm tuyệt đối, hợp nhất công đức và trí huệ.

“Nhìn thấy căn tánh của người” cũng là nhìn vào hai loại tâm Bồ đề ấy. Căn tánh tuyệt đối của người là Phật tánh. Căn tánh tương đối của người là mức độ tu hành của người ấy.

 

MA HA CA CHIÊN DIÊN

Phật bảo Ma Ha Ca Chiên Diên: “Ông đi đến thăm bệnh ông Duy Ma Cật.”

Ca Chiên Diên bạch Phật rằng: “Thưa Thế Tôn! Con không kham nhận nổi việc đến thăm bệnh ông ấy. Tại sao thế? Nhớ lại trước kia, Phật nói pháp yếu cho các tỳ kheo. Sau đó con diễn rộng các nghĩa ấy, tức là: nghĩa vô thường, nghĩa khổ, nghĩa Không, nghĩa vô ngã, nghĩa tịch diệt. Lúc ấy Duy Ma Cật đến, nói với con rằng:

“Thưa ngài Ca Chiên Diên! Chớ lấy tâm hạnh sanh diệt mà nói pháp thật tướng.

“Ngài Ca Chiên Diên! Các pháp rốt ráo chẳng sanh chẳng diệt, đó là nghĩa Vô thường. Năm thọ ấm trống rỗng, Không, không có chỗ sanh khởi, đó là nghĩa Khổ. Các pháp rốt ráo không chỗ có, đó là nghĩa Không. Nơi ngã và vô ngã thấy không hai, đó là nghĩa Vô ngã. Pháp vốn chẳng cháy, nay cũng không tắt, đó là nghĩa Tịch diệt.”

“Nói pháp ấy xong, các tỳ kheo kia tâm được giải thoát. Thế nên con không kham nhận đến thăm bệnh ông được.”

 

Pháp thật tướng là pháp không sanh diệt, do đó lấy tâm thức sanh diệt mà nói pháp thật tướng thì thật tướng cũng tùy theo đó mà thành sanh diệt. Cho rằng có các pháp và các pháp là vô thường, đó là chân lý tương đối (tục đế). Thấy được các pháp rốt ráo chẳng từng sanh ra, chẳng từng diệt mất, đây là trí huệ Đại thừa, và đó là chân lý tuyệt đối (chân đế).

Thấy các pháp đã có sanh ra, và như thế đã có tất cả sanh tử, không gian thời gian, rồi trên ấy khởi lên quán hạnh vô thường, đó là cái thấy (kiến), thiền định, và hạnh của Tiểu thừa. Thế có nghĩa là tu trên cái quả của sanh tử, cái sự đã rồi của sanh tử. Cái thấy của Đại thừa là các pháp rốt ráo chẳng sanh, ở ngay cái thấy ấy mà thiền định, mà tu hạnh. Thế có nghĩa là tu trên cái nhân của sanh tử, cái Không Tịch chưa từng sanh ra sanh tử, và như vậy chặt đứt sanh tử tại ngay cội nguồn của nó.

Nói cách khác, Đại thừa không y vào tướng để tu mà y vào tánh để tu. Vậy tánh là gì để mà tu? Trong kinh Lăng Nghiêm, Phật nêu hai thí dụ thực nghiệm để chỉ cái tánh:

* Khi bấy giờ đức Như Lai ở giữa đại chúng nắm bàn tay lại, rồi lại mở ra, mở rồi lại nắm, bảo ông A Nan rằng: “Nay ông thấy gì?’ Ông A Nan đáp: “Con thấy bàn tay của Như Lai lúc mở lúc nắm.” Phật bảo ông A Nan: “Ông thấy bàn tay ta lúc mở lúc nắm, đó là tay ta có mở có nắm hay là cái thấy của ông có mở có nắm?” Ông A Nan bạch: “Bàn tay của Thế Tôn khi mở khi nắm. Con thấy bàn tay Như Lai tự mở tự nắm, chứ không phải tánh thấy của con có mở có nắm.” Phật bảo: “Cái gì động, cái gì tĩnh?” Ông A Nan bạch: “Bàn tay Phật không ở yên, chứ tánh thấy của con còn không có tĩnh, lấy gì gọi là không ở yên.” Phật dạy: “Đúng vậy.”

Lúc ấy đức Như Lai từ trong bàn tay phát ra một luồng hào quang qua bên phải ông A Nan, ông A Nan liền quay đầu qua phải. Phật lại phát ra một luồng hào quang qua bên trái ông A Nan, ông A Nan lại quay đầu qua trái. Phật bảo ông A Nan: “Hôm nay vì sao đầu ông lại lay động?” Ông A Nan bạch: “Con thấy Như Lai phát hào quang qua bên phải và bên trái của con, nên con xoay đầu qua phải qua trái, đầu tự lay động”. Phật bảo: “A Nan, ông xem hào quang mà lay động cái đầu, quay phải quay trái, đó là cái đầu ông động hay là cái thấy động?” – Thưa Thế Tôn, đầu con tự động chứ thấy của con còn không ở đâu cả, lấy gì mà lay động. Phật dạy: “Đúng vậy.”

Lúc bấy giờ, đức Phật bảo với cả đại chúng rằng: “Như các chúng sanh lấy cái lay động mà gọi là trần, lấy cái không ở yên mà gọi là khách, thì các ông hãy xem ông A Nan, đầu tự lay động mà cái thấy không lay động, lại hãy xem bàn tay ta tự mở tự nắm mà cái thấy không duỗi không co. Làm sao các ông hiện nay lại lấy cái động làm thân, lấy cái động làm cảnh, từ đầu đến cuối, niệm niệm sanh diệt, bỏ mất chân tánh, làm việc trái ngược. Tâm tánh mất chỗ chân thật, nhận vật làm mình, xoay vần trong ấy, tự nhận lấy việc trôi lăn trong sáu nẻo luân hồi.”

* Bấy giờ, đức Như Lai bảo ông La Hầu La đánh một tiếng chuông, hỏi ông A Nan: “Nay ông có nghe chăng?” Ông A Nan và đại chúng đều nói: “Có nghe.” Chuông hết kêu, không còn tiếng, Phật lại hỏi: “Nay ông có nghe chăng?” Ông A Nan và đại chúng đều đáp: “Không nghe.” Khi đó ông La Hầu La lại đánh một tiếng chuông, Phật lại hỏi: “Nay ông có nghe chăng?” Ông A Nan và đại chúng đều đáp: “Có nghe.” Phật bảo ông A Nan: “Thế nào thì ông có nghe, và thế nào thì ông không nghe?” Ông A Nan và đại chúng đều bạch Phật rằng: “Tiếng chuông có đánh thì chúng con có nghe; đánh lâu tiếng hết, âm vang không còn thì không nghe.” Phật bảo ông La Hầu La làm một lần nữa như trước và ông A Nan cùng đại chúng cũng đáp như trước. Phật bảo ông A Nan và đại chúng: “Hôm nay các ông nói trái ngược, lộn xộn.” Đại chúng và ông A Nan bạch Phật: “Làm sao Phật bảo chúng con trái ngược lộn xộn?”

Phật dạy: “Ta hỏi ông về nghe, thì ông nói là nghe. Ta hỏi ông về tiếng thì ông nói là tiếng, chỉ cái nghe và cái tiếng mà trả lời không nhất định như thế, sao không gọi là trái ngược, lộn xộn? A Nan, tiếng mất, không âm vang, thì ông gọi là không nghe; nếu thật không nghe, thì tánh nghe đã diệt mất, bây giờ tiếng chuông đánh lên, làm sao ông biết được. Biết có, biết không là tự cái tiếng hoặc có hoặc không, đâu phải vì tánh nghe kia vì đó mà có mà không. Nếu tánh nghe thật là không, thì còn cái gì biết là không nghe nữa. Vậy nên A Nan, cái tiếng ở trong cái nghe tự có sanh có diệt, không phải vì ông nghe cái tiếng sanh diệt mà tánh nghe của ông thành có thành không.

“Do các chúng sanh, từ vô thủy đến nay, chạy theo sắc thanh, theo niệm mà luân chuyển, không hề tỏ ngộ bản tánh thanh tịnh diệu thường; không theo cái thường, chỉ theo các thứ sanh diệt, do đó đời này sang đời khác bị nhiễm ô mà phải lưu chuyển. Nếu bỏ cái sanh diệt, giữ tánh chân thường, cái sáng suốt chân thường hiện tiền, thì các tâm niệm căn, trần, thức ngay đó đều tiêu mất. Tướng vọng tưởng là trần, tính phân biệt là cấu, hai cái đó đã xa lìa, thì con mắt pháp của ông liền được trong sáng, làm sao lại không thành bậc vô thượng tri giác?”

Ngộ được tánh bất sanh bất diệt như vậy. Trên kinh nghiệm đó mà thiền định, hành trì, đó gọi là “chân chánh nhập Phật đạo”.

 

Những câu tiếp theo về nghĩa Khổ, Không, Vô ngã, Tịch diệt cần phải được thiền định, thiền quán lâu ngày dần dần hành giả mới hé mở đôi chút về thực tại. Nhiều kinh nghiệm nhỏ về thực tại đưa hành giả đến một cái ngộ nhỏ. Hoặc có khi hành giả có một kinh nghiệm lớn về thực tại, đó là ngộ. Dầu kinh nghiệm đến từ từ hay đột ngột một kinh nghiệm lớn, thì mọi kinh nghiệm tâm linh đích thực phải là kinh nghiệm về bản tánh và đặt nền trên bản tánh nền tảng. Thấy được nền tảng của chính mình, của sự vật, chúng sanh và thế giới, nghĩa là thấy được Con Đường Đạo, từ đó mới hành thiền và sống cuộc đời mình trong mọi phương diện tương ưng với thật tánh đó.

Ở đây nói thêm về nghĩa Vô ngã của Đại thừa. Vì Đại thừa thấy ngã và vô ngã là không hai, nên bồ tát mới có thể ở nơi ngã mà giúp đỡ chúng sanh mà vẫn không ô nhiễm bởi ngã. Không chứng được như vậy để có thể ở trong một cái ‘ngã tức là vô ngã’, vị A La Hán thật chứng vô ngã, và do đó không còn ở trong sanh tử để giúp đỡ được chúng sanh. Đây là chỗ kinh Đại Bát Nhã nói rằng Bồ tát học Không mà không tác chứng thật tế Không.

 

A NA LUẬT

Phật bảo A Na Luật: “Ông đi đến thăm bệnh ông Duy Ma Cật.”

A Na Luật bạch Phật rằng: “Thưa Thế Tôn! Con không kham nhận nổi việc đến thăm bệnh ông ấy. Tại sao thế? Nhớ lại trước kia, con đi kinh hành tại một chỗ nọ. Lúc ấy có Phạm vương tên là Nghiêm Tịnh cùng với một vạn vị trời Phạm tỏa ra ánh sáng trong sạch đi đến chỗ con, cúi đầu lễ lạy, hỏi con rằng: “Thưa ngài A Na Luật, thiên nhãn của ngài thấy bao xa?” Con liền đáp rằng: “Nhân giả! Tôi thấy thế giới tam thiên đại thiên đây của cõi Phật Thích Ca Mâu Ni như thấy trái am ma lặc trong bàn tay.”

“Lúc ấy, Duy Ma Cật đến, nói với con rằng: “Thưa ngài A Na Luật! Thiên nhãn của ngài thấy là có làm ra tướng hay không làm ra tướng? Nếu là tướng có làm ra, thì cũng đồng với ngũ thông của ngoại đạo. Nếu là tướng không làm ra, thì tức là vô vi, làm sao thấy được.”

“Thế Tôn! Lúc ấy con nín lặng. Những vị Phạm kia nghe ông ấy nói, được sự chưa từng có.

Họ bèn đảnh lễ, hỏi rằng: “Trong đời ai là người có chơn thiên nhãn?”

Duy Ma Cật nói: “Chỉ có Phật Thế Tôn được chơn thiên nhãn. Thường trong tam muội, thấy suốt hết các cõi Phật không có hai tướng.”

“Ngay lúc ấy, Phạm vương Nghiêm Tịnh cùng quyến thuộc năm trăm Phạm thiên đều phát tâm Bồ đề vô thượng chánh đẳng chánh giác. Các vị ấy đảnh lễ dưới chân Duy Ma Cật, rồi bỗng nhiên biến mất. Thế nên con không kham nhận đến thăm bệnh ông được.”

 

Nếu thiên nhãn – dầu là của một vị thiên nhãn đệ nhất – là thấy có tướng, tướng xa khắp thế giới tam thiên đại thiên, thì thiên nhãn ấy vẫn nằm trong vòng sắc tướng, cũng đồng với năm thần thông của ngoại đạo, không giải thoát khỏi sanh tử. Còn nếu không có tướng, không tạo tác ra tướng, thì có gì để thấy.

Vấn đề là thấy mà không thấy, thấy vô vàn sắc tướng mà vẫn biết chúng là tánh Không, thấy tất cả hoa đốm mà vẫn biết đó là cái vọng thấy giữa hư không. Đó là cái thấy, cái tu hành của bồ tát: tướng và vô tướng không hai, hoa đốm và hư không không hai, hình tướng và tánh Không không hai.

Thường trong tam muội tức là thấy ‘không có hai tướng’. Thấy không có hai tướng tức là thấy pháp tánh và thường ở trong pháp tánh.

Thực hành là luôn luôn vượt thoát khỏi cái thấy thế gian thường tục, luôn luôn làm quen và an trụ trong cái thấy thanh tịnh (chánh kiến). Cái thấy thanh tịnh thì thấy Tịnh độ.

 

ƯU BA LY

Phật bảo Ưu Ba Ly: “Ông đi đến thăm bệnh ông Duy Ma Cật.”

Ưu Ba Ly bạch Phật rằng: “Thưa Thế Tôn! Con không kham nhận nổi việc đến thăm bệnh ông ấy. Tại sao thế? Nhớ lại trước kia, có hai vị tỳ kheo phạm giới luật, vì hổ thẹn, không dám đến hỏi Phật. Bèn đến hỏi con rằng: “Thưa ngài Ưu Ba Ly! Chúng tôi phạm luật, thật lấy làm hổ thẹn, không dám hỏi Phật. Mong ngài giải nghi nan, hối hận cho chúng tôi được khỏi tội ấy.” Con liền như pháp giải nói cho hai vị.

“Lúc ấy, Duy Ma Cật đến, nói với con rằng: “Thưa ngài Ưu Ba Ly! Chớ kết thêm cho nặng tội lỗi của hai vị tỳ kheo này, nên trực tiếp trừ diệt ngay đi, chớ làm rối loạn tâm họ. Tại sao thế? Tánh của tội kia không ở trong, không ở ngoài, không tại khoảng giữa. Như Phật có nói: “Tâm dơ nên chúng sanh dơ; tâm sạch nên chúng sanh sạch.” Tâm cũng chẳng ở trong, chẳng ở ngoài, chẳng ở khoảng giữa. Tâm như thế nào, tội cấu cũng như thế ấy. Các pháp cũng như thế, không ra ngoài Chân Như.

“Như khi ngài Ưu Ba Ly thấu đạt tâm tánh (bản tánh của tâm) để đắc giải thoát thì tâm tánh ấy có sự dơ bẩn (cấu) gì chăng?” Con đáp: “Không có.” Duy Ma Cật nói: “Tâm tánh của tất cả chúng sanh vốn không có sự dơ bẩn cũng như vậy.

“Thưa ngài Ưu Ba Ly, vọng tưởng là dơ, không có vọng tưởng là sạch. Điên đảo là dơ, không có điên đảo là sạch. Giữ lấy cái ta là dơ, không giữ lấy cái ta là sạch.

“Ngài Ưu Ba Ly! Tất cả các pháp sanh diệt chẳng trụ, như huyễn, như chớp. Các pháp chẳng đợi nhau, cho đến một niệm cũng chẳng dừng. Các pháp đều là vọng thấy, như mộng, như dợn nắng, như trăng dưới nước, như bóng trong gương. Chúng do vọng tưởng sanh. Người nào biết điều này gọi là phụng trì giới luật. Người nào biết điều này gọi là khéo hiểu.”

“Lúc đó hai vị tỳ kheo nói rằng: “Thượng trí thay! Ngài Ưu Ba Ly chẳng thể bì kịp dầu là bậc giữ giới luật hơn hết.” Con đáp rằng: “Ngoại trừ Như Lai, chưa có bậc Thanh Văn và Bồ tát nào có thể chế phục được biện tài thuyết pháp của ngài. Trí huệ ngài sáng suốt như vậy đó.”

“Bấy giờ hai vị tỳ kheo dứt hết nghi nan hối hận, phát tâm Bồ đề vô thượng chánh đẳng chánh giác và phát nguyện rằng: “Cầu cho tất cả chúng sanh điều được biện tài như vậy.” Thế nên con không kham nhận đến thăm bệnh ông được.”

 

Thiền quán phát sanh trí huệ, là sự thấu hiểu bản chất của sự việc. Tánh của tội không ở trong, không ở ngoài, không ở khoảng giữa và cái tâm sanh ra tội này cũng không ở trong, không ở ngoài, không ở khoảng giữa. Tâm không thể tìm thấy ở đâu cả thì tội cũng không thể tìm thấy ở đâu cả. Với sự quán chiếu sâu sắc, người ta có thể thấu hiểu được bản tánh của tâm và của tội. Sự quán chiếu này không phải chỉ xảy ra trong một vài lần ngồi thiền, mà là những lần ngồi thiền liên tục cho đến khi thấu rõ vấn đề.

Cái hiểu trong thiền định là trí huệ. Cái hiểu này không hời hợt ở những lớp mặt ngoài của thức mà tỏa sáng ở những tầng lớp sâu tột của tâm thức, do đó làm thay đổi toàn bộ tâm thức, toàn bộ con người.

Kinh điển Đại thừa nếu không đi theo trình tự Văn (nghe), Tư (tư duy), Tu (thiền định), nghĩa là không có thực hành thì chỉ là một hình thức văn chương trác tuyệt, thỏa mãn thêm cho cơ cấu vọng tưởng của tâm thức, làm tăng thêm các độc tham, sân, si, kiêu mạn, đố kỵ nơi mình.

Với một sự quán chiếu sâu xa ở tận đáy của thân tâm mình về bản tánh của tội, tội lỗi có thể được giải trừ khi thấu hiểu tội lỗi không có hiện hữu độc lập, nó là duyên sanh, không có tự tánh nên là tánh Không. Tánh Không là sự giải thoát cho mọi tội lỗi. Nên nếu thấy được tánh Không, phụng trì nó thì gọi là phụng trì giới luật. Bắt đầu thấy được tánh Không, nghĩa là bắt đầu thấy được các pháp không còn cứng chắc, cố đinh, đông đặc, là trí huệ bắt đầu sanh khởi. Tùy theo trí huệ chiếm được bao nhiêu phần của tâm thức, chuyển hóa bao nhiêu phần thói quen vô minh của tâm thức mà có các cấp bậc (các địa) của bồ tát cho đến khi toàn giác.

 

LA HẦU LA

Phật bảo La Hầu La: “Ông đi đến thăm bệnh ông Duy Ma Cật.”

La Hầu La bạch Phật rằng: “Thưa Thế Tôn! Con không kham nhận nổi việc đến thăm bệnh ông ấy. Tại sao thế? Nhớ lại trước kia, các con nhà trưởng giả ở thành Tỳ Da Ly đến chỗ con, cúi đầu đảnh lễ, hỏi con rằng: “Thưa ngài La Hầu La! Ngài là con của Phật, đã từ bỏ địa vị Chuyển luân vương mà xuất gia theo đạo, việc xuất gia đó có những lợi lạc gì?” Con liền đứng như pháp, nói sự lợi lạc của công đức xuất gia.

“Lúc ấy Duy Ma Cật đến, nói với con rằng: “Thưa ngài La Hầu La! Chớ nên nói cái lợi của công đức xuất gia. Tại sao thế? Không lợi lạc, không công đức, đó là xuất gia. Với pháp hữu vi, còn có thể nói có lợi lạc, có công đức. Phàm xuất gia là pháp vô vi. Trong pháp vô vi, không lợi lạc, không công đức.

“Ngài La Hầu La! Phàm xuất gia là không có kia, không có đây, cũng không có ở giữa. Lìa sáumươi hai kiến, ở nơi Niết bàn. Là chỗ thọ nhận của người trí, chỗ làm của bậc thánh. Nó hàng phục tất cả các Ma, giải thoát khỏi năm Nẻo, làm thanh tịnh năm Nhãn, trau dồi năm Lực, lập năm Căn, không gây phiền rối cho ai, không biến chất bởi cái ác. Dẹp các ngoại đạo, vượt mọi giả danh, thoát khỏi bùn lầy, không bám nắm, không có “ta” và “cái của ta”, không chỗ thọ, không nhiễu loạn. Bên trong yên ổn và hoan hỷ, nâng đỡ người khác. Thuận theo thiền định, lìa hẳn các lỗi lầm. Nếu có thể như vậy, đó mới là chơn xuất gia.

Lúc đó, Duy Ma Cật bảo các trưởng giả tử “Các ngươi nay ở trong chánh pháp, nên cùng nhau xuất gia. Tại sao thế? Vì rất khó gặp thời Phật ra đời.”

Các trưởng giả tử nói: “Thưa cư sĩ! Chúng tôi nghe Phật nói: Cha mẹ không cho phép thì không được xuất gia.”

Duy Ma Cật nói: “Đúng vậy. Các người phát tâm vô thượng Bồ Đề, thì đó chính là xuất gia, đó là giới cụ túc.”

“Bấy giờ ba mươi hai trưởng giả tử đều phát tâm vô thượng Bồ Đề. Vì thế con không kham nhận đến thăm bệnh ông được.”

 

Không lợi lạc, không công đức, đó là xuất gia: ở đây chỉ thẳng Pháp thân chư Phật, chứng ngộ được việc này bèn là Pháp thân Bồ tát, rồi cứ tuần tự như thế mà tu cho đến hoàn toàn. Phàm có tâm, có tướng thì có lợi lạc, có công đức; có thêm, có bớt; có tăng, có giảm; có dơ, có sạch… Nhưng xưa nay tâm chưa từng sanh, tướng chưa từng trụ, lấy đâu có các pháp hữu vi để gọi rằng có lợi lạc, có công đức…

“Các pháp từ xưa nay

Thường tự tịch diệt tướng.”

Cái “không lợi lạc, không công đức” này mà tham cho thấu thì chẳng khác gì tham thấu công án Vô (không có) của Triệu Châu, là công án đã đưa không biết bao nhiêu người xưa bước vào Thật Địa. (Có nhà sư hỏi tổ Triệu Châu: “Con chó có Phật tánh chăng.” Tổ đáp: “Vô.”) Hãy tham thiền cho kỹ mà đứng vào trong ấy, trong cái “không lợi lạc, không công đức” này.

Trong pháp vô vi, tức là trong Pháp thân, tức là trong cái hiện đây và bây giờ, rỗng rang sáng chiếu thấu suốt, không có lợi lạc, không có công đức. Còn niềm vui nào hơn!

Bằng sự tham thiền liên tục phải thấy cho được cái “không có kia, không có đây, cũng không có ở giữa”, cái “lìa sáu mươi hai kiến, ở nơi Niết Bàn”. Thấy được cái ấy thì mới biết được nó vốn tự xuất gia, nghĩa là chưa từng ô nhiễm.

Sự tu Thiền của người xưa là đốn ngộ Cái Ấy (tức là thấy Cái Ấy) sau đó tiệm tu Cái Ấy (tức là thiền định tương tục về Cái Ấy), tu đến đâu thì Quả hiện ra đến đó (tức là Cái Ấy hiện ra đến đó), có làm gì thì cũng không ra ngoài Cái Ấy. Nhân, Hạnh, Quả hay Tín, Hạnh, Nguyện gì thì cũng không ra ngoài Cái Ấy.

Cho nên trong những câu kinh trên, có thể lấy một câu nào, tùy theo căn cơ sở thích mà tham cho thấu vào: “Là chỗ thọ nhận của người trí, chỗ làm của bậc thánh”, “Nó hàng phục tất cả các Ma”, “không chỗ thọ”, “không bám nắm”, “không biến chất bởi cái ác”, “vượt khỏi mọi giả danh”…

Tất cả những pháp môn của đạo Phật đều quy về Cái Này, thấy Cái Này, tu Cái Này và chứng Cái Này. Với người nào đã thấy phần nào Cái Này, nghĩa là đã có thể hiểu được kinh, đã có thể tu hành được, đã có thể “xuất gia”, thì vấn đề dễ dàng. Còn với người chưa thấy, phải tích tập trí huệ và công đức, đến lúc đủ nhân duyên thì thấy. Tích tập trí huệ là Văn, Tư, Tu (Nghe, Suy nghĩ và Thiền định).

 

A NAN

Phật bảo A Nan: “Ông đi đến thăm bệnh ông Duy Ma Cật.”

A Nan bạch Phật rằng: “Thưa Thế Tôn! Con không kham nhận nổi việc đến thăm bệnh ông ấy. Tại sao thế? Nhớ lại trước kia, thân Thế Tôn có chút bệnh, cần dùng sữa bò. Con liền ôm bát, đến đứng trước cửa nhà đại Bà La Môn. Lúc ấy Duy Ma Cật đến, nói với con rằng: “Thưa ngài A Nan! Vì sao mới sáng sớm lại ôm bát đứng đây?”

Con nói với cư sĩ: “Thân Thế Tôn có chút bệnh, cần dùng sữa bò, nên tôi đến đây.”

Duy Ma Cật nói: “Thôi thôi! Ngài A Nan! Chớ nói lời ấy! Thân Như Lai là thể Kim Cương, các cái ác đã dứt, mọi cái thiện đều tụ hội, làm gì có bệnh? Làm gì có não?

“Hãy im lặng mà đi, ngài A Nan! Chớ phỉ báng Như Lai. Chớ để người khác nghe lời thô ấy. Đừng để chư thiên đại oai đức cùng chư Bồ tát các tịnh độ phương khác đến đây nghe được lời ấy. Ngài A Nan, chuyển luân thánh vương có ít phước đức mà còn không có bệnh, huống là Như Lai, vô lượng phước đức tụ hội, vượt khắp tất cả!

“Hãy đi thôi, ngài A Nan! Chớ làm cho chúng tôi phải chịu sự sỉ nhục ấy. Những người ngoại đạo Phạm chí nếu nghe lời ấy, ắt sẽ nghĩ rằng: “Sao gọi là Thầy được? Bệnh mình chẳng cứu chữa được mà có thể cứu chữa những người có bệnh sao!” Ngài nên kín đáo đi mau, chớ để ai nghe.

“Ngài A Nan! Phải biết thân chư Như Lai tức là Pháp thân; chẳng phải thân tư tưởng và ham muốn. Phật là bậc Thế Tôn, vượt khỏi ba cõi. Thân Phật không phiền não nhiễm ô. Các phiền não nhiễm ô đã hết sạch. Thân Phật vô vi, chẳng sa vào số hạn. Cái thân như thế, có bệnh gì sao?”

“Bạch Thế Tôn, lúc ấy con thật hổ thẹn, chẳng lẽ gần Phật mà lại nghe hiểu lầm? Liền nghe trên không có tiếng nói rằng: “A Nan! Đúng như cư sĩ nói, chỉ vì Phật xuất hiện nơi đời ác năm trược nên hiện hành pháp ấy để độ thoát chúng sanh mà thôi. Ngài A Nan, hãy đi lấy sữa, chớ có hổ thẹn.”

“Bạch Thế Tôn! Ông Duy Ma Cật trí huệ biện tài như vậy, thế nên con không kham nhận đến thăm bệnh ông được.”

Như vậy năm trăm vị đại đệ tử, mỗi vị đều thưa với Phật duyên cớ trước kia của mình, thuật lại những lời của ông Duy Ma Cật, đều nói không kham nhận đến thăm bệnh ông được.

 

Thân kim cương này không phải chỉ chư Phật mới có, mà tất cả chúng sanh vẫn đang có nó. Tất cả chúng ta vẫn đang có đầy đủ Phật tánh, đang có đầy đủ tất cả những trí huệ bổn nguyên, từ Đại Viên Cảnh Trí cho đến Thành Sở Tác Trí… Nhưng chỉ vì không biết đến nó, chạy theo những sướng khổ, vui buồn, được mất, có không… mà thành ra càng lúc càng đui mù không thấy nó, không còn biết một tin tức gì về nó, để thành ra một cùng tử lang thang hết đời này sang đời khác trong sanh tử.

Gọi là Kim Cương bởi vì:

– Nó vốn sẵn có, không do những hợp tạo mà thành, không do những pháp hữu vi mà thành, không do tạo tác tu luyện mà thành.

Nó là kiên cố, không trộn lẫn, không hòa hợp: không trộn lẫn, hòa hợp với phiền não nhiễm ô, với tất cả những thứ có sanh có diệt trong thế gian, mà như ở đây nói, “chẳng sa vào số hạn”. Phiền não là cái đến từ bên ngoài, là cái có đến rồi có đi (khách trần phiền não), là cái tạm thời, là cái bản chất mềm yếu, nên chẳng có thể trộn lẫn với nó, “dính” với nó. Phiền não có thể che lấp giữa mỗi người chúng ta với nó, nhưng không thể trực tiếp che đậy nó. Sự kiên cố này trong các kinh thường gọi là bất sanh bất diệt, không dính dáng gì đến các thứ sanh diệt.

– Bản chất của nó là ánh sáng. Ánh sáng này thấu suốt mọi hình tướng và bao trùm tất cả ba cõi. Hơn nữa, ba cõi nếu có xuất hiện, và xuất hiện cách nào theo nghiệp, thì đều xuất hiện trên nền tảng là nó và trong nền tảng là nó.

Chỉ nói vài đặc tính của Thể Kim Cương này, vì tất cả kinh điển đều nói về nó, theo nhiều phương diện khác nhau. Nó là Pháp thân. Và chúng ta chú ý, kinh không nói Pháp thân của riêng một vị Phật, mà nói là Pháp thân của chư Phật. Nghĩa là tất cả chư Phật, tất cả phàm thánh trời người đều có chung một Pháp thân. Pháp thân ấy là bản tánh bất sanh bất diệt, bất cấu bất tịnh, bất tăng bất giảm của tâm thức của mỗi chúng ta.

Người xưa nói: “Tín tức nhập”, tin là nhập. Để có được sự tin này, hành giả phải có những thực hành sơ bộ để cho tâm thức tạm thời bớt bị che chướng bởi phiền não, tạm thời ổn định, từ đó mới có thể có một tiếp xúc sơ bộ, mỏng cạn, thoáng chốc với thực tại Kim Cương này. Từ đây sự tiếp xúc càng ngày càng tăng về chiều rộng lẫn chiều sâu. Đó là quá trình tiếp xúc, gặp gỡ, hòa nhập của Tịnh Quang Con – ánh sáng do tu hành mà khai mở nơi chính mình, hay còn gọi là Thủy Giác – với Tịnh Quang Mẹ – Pháp thân của chính mình và của chư Phật, hay còn gọi là Bản Giác, nói theo cách nói của Phật giáo Ấn Độ và Tây Tạng.

 

-----oo0oo-----

Trích: Thực Hành Con Đường Bồ Tát Qua Kinh Duy Ma Cật

Giảng giải: Đương Đạo

NXB Thiện Tri Thức, 2015

Ảnh: Nguồn internet

 

 

Bài viết liên quan