PHẠM VI CỦA THỨC ẤM - KINH LĂNG NGHIÊM-HÀNH GIẢI - ĐƯƠNG ĐẠO

PHẠM VI CỦA THỨC ẤM

KINH LĂNG NGHIÊM - HÀNH GIẢI

ĐƯƠNG ĐẠO

-----oo0oo-----

Sự phá trừ năm ấm diễn ra suốt con đường Phật đạo, đặc biệt hiệu quả và rõ ràng là trong Thập Địa. Ở đây một phần năm ấm tiêu trừ thì một phần tánh Minh Diệu hay Pháp thân hiển lộ. Cho đến khi hoàn toàn hết thức ấm là hết Thập Địa, lên Đẳng Giác.
PHẠM VI CỦA THỨC ẤM - KINH LĂNG NGHIÊM-HÀNH GIẢI - ĐƯƠNG ĐẠO

 

A Nan, thiện nam tử ấy tu tam ma địa, khi hành ấm hết thì cái then chốt đồng phận u ẩn giản phác máy động sanh ra các loài thế gian bỗng chốc nát tan. Giềng mối vi tế, mạch ngầm gây nghiệp chịu quả báo của ngã thể chúng sanh, cảm ứng đều dứt bặt.

Trong bầu trời Niết bàn sắp được rất tỏ sáng, ví như gà gáy lần chót, ngắm nhìn phương Đông đã có ánh sáng. Sáu căn rỗng rang thanh tịnh, không còn rong ruổi. Trong ngoài trong lặng sáng suốt, vào vô sở nhập, thông đạt nguyên do thọ mạng của mười hai loài chúng sanh trong mười phương. Quán thấy nguyên do là chấp trước, các loài không thể hấp dẫn được, với mười phương thế giới đã được tánh đồng, ánh sáng không bị chìm mất, phát hiện ra những chỗ u ẩn, bí mật. Đây gọi là phạm vi của Thức ấm.

Nếu trong tánh đồng của các loài đã chứng được mà tiêu tan sáu căn, khi hợp khi chia được thành tựu, thấy nghe thông nhau, dùng thay lẫn nhau một cách thanh tịnh, mười phương thế giới cùng với thân tâm như ngọc lưu ly, trong ngoài đều sáng suốt, đó gọi là thức ấm hết. Người ấy có thể siêu vượt mạng trược. Quán sát nguyên do, cội gốc là vọng tưởng điên đảo, ảo tưởng rỗng không.

 

Hành ấm là cái then chốt đồng phận của ngã thể chúng sanh. Khi nó đã nát tan, dứt bặt, là vào phạm vi của thức ấm: bầu trời Niết bàn bắt đầu rạng sáng. Các ấm sanh diệt càng diệt thì Niết bàn tịch diệt càng hiện tiền.

Thức ấm hết là bắt đầu đi vào Niết bàn. Đây là nói theo hệ thống lần lượt năm ấm. Nhưng người ta có thể chứng Niết bàn lần thứ nhất (Nhập lưu) trong các ấm trước, vì thật ra bản tánh của các ấm là Niết bàn.

Nói rằng bản tánh của năm ấm là Niết bàn, nghĩa là năm ấm là sự ánh hiện, chiếu hiện của Niết bàn.

Cội gốc của thức ấm là vọng tưởng điên đảo, ảo tưởng rỗng không. Khi chứng nghiệm được điều này thì ánh sáng bên trong và ánh sáng bên ngoài là một, “trong ngoài sáng suốt, thân tâm với mười phương thế giới cùng một tánh đồng; thanh tịnh sáng suốt như ngọc lưu ly”.

Nhìn tổng quát, con đường Phật giáo là phá trừ vọng tưởng, vọng tưởng hết thì tâm thanh tịnh viên mãn hiện ra trọn vẹn. Trong phần nói về năm ấm này là phá trừ vọng tưởng, nhưng nếu an trụ trong tánh thanh tịnh, trong sáng Diệu Minh, trong tánh đồng của thân tâm và thế giới thì vọng tưởng cũng dần dần tự tiêu tan, như ở trong ánh sáng thì bóng tối tự tiêu tan. Phần phá trừ năm ấm này giúp cho hành giả, dù tu theo cách nào hay là cả hai thay đổi nhau, thấy được những chướng ngại của mình còn nhiều hay ít, cái nào đã tiêu tan để tiếp tục được phá trừ.

Thức ấm ma khởi ra là do chưa cùng tột tánh Không của thức ấm.     
 

  1. A Nan, nên biết các thiện nam tử ấy đã xét cùng tánh Không của các hành, trở về cội nguồn của thức, đã diệt sanh diệt nhưng chưa viên mãn trong chỗ tinh diệu của tịch diệt. Người ấy có thể khiến nơi thân mình các căn khác nhau, khi hợp khi chia và cùng với các loài mười phương thông chung tánh giác. Cái giác tri thông suốt một vị vắng lặng, có thể nhập vào nguồn viên mãn.

Nếu ở chỗ quay về, lại lập ra cái nhân chân thường, sanh ra cái hiểu thù thắng, thì người ấy sa vào cái chấp ‘nhân của nhân’, thành bè bạn với nhóm Ta Tỳ Ca La, chấp Minh đế là chỗ trở về, mê lầm Giác ngộ của Phật, bỏ mất chánh tri kiến.

Đó gọi là hạng thứ nhất, lập ra cái tâm có chỗ đắc, thành cái quả có chỗ quy về, trái xa tánh Viên thông, ngược với đạo Niết bàn, sanh vào giống ngoại đạo.

 

Ở đây, tuy đã xét cùng tánh Không của các hành, trở về cội nguồn của thức, đã diệt sanh diệt nhưng chưa viên mãn trong chỗ tinh diệu của tịch diệt, do đó mà có thể đi lạc, trái với tánh viên thông, ngược với đạo Niết bàn.

Trở về cội nguồn của thức thì rất tự tại, “cái thấy cái nghe thông nhau, khi hợp khi chia, cùng với các loài mười phương thông nhau tánh giác, nhưng chưa viên mãn trong chỗ tinh diệu của tịch diệt”.

Chính ở chỗ chưa hoàn toàn là tánh giác này, chưa rốt ráo trong chỗ quy về này mà lập ra “cái nhân chân thường”, cho đó là “nhân của nhân”, nhân đầu tiên của mọi sự, bèn lạc vào Minh đế của ngoại đạo.

Tánh nghe, tánh thấy không ở chỗ nào cả, không là nhân nào cả, nó là “vô sở quy”, là cội nguồn không có nguồn gốc, là vô sanh. Cho nên cho rằng có cái tánh nào đó sanh ra tất cả các tướng, bây giờ xoay các tướng trở về tánh, đó là quan niệm thô sơ ban đầu.

Cái nhân của nhân là không có nhân, tánh Viên thông là tánh vô sở hữu, vô sở quy, như thế mới không ngược với đạo Niết bàn vô sanh.

Nền tảng thật sự là không có nền tảng, cội nguồn thật sự là không có ở đâu cả trong không gian thời gian. Khi không có chỗ để quy về, không có cái gì là nhân, không có cái gì là quả, mới là giải thoát rốt ráo.

 

  1. A Nan, lại thiện nam tử kia xét cùng tột tánh Không của các hành, đã diệt sanh diệt, nhưng chưa viên mãn trong chỗ tinh diệu của tịch diệt. Nếu ở chỗ quay về mà ôm lấy đó làm tự thể, cho rằng tất cả chúng sanh trong mười hai loài khắp cả hư không đều ở trong thân mình lưu xuất, sanh ra cái hiểu thù thắng, thành bè bạn với trời Ma hê thủ la, hiện thân vô biên, mê lầm Giác ngộ của Phật, bỏ mất Chánh tri kiến.

Đó gọi là hạng thứ hai, lập ra cái tâm làm ra, thành cái quả sự làm ra, trái xa tánh Viên thông, ngược với đạo Niết bàn, sanh vào giống Đại mạn thiên, cho cái ta là cùng khắp viên mãn.

 

Ôm lấy tánh viên thông làm tự thể, rồi cho rằng tất cả hiện hữu đều sanh từ tánh tịch diệt của ta, bèn rơi vào kiếnchấp của Trời Ma hê thủ la, cho rằng vũ trụ từ thân ta lưu xuất.

Có làm mà chẳng làm (tự tại), có cái tâm làm ra, cái sự làm ra, thì trái với đạo Niết bàn, là không từng có cái gì sanh ra, không từng có cái gì diệt mất.

 

  1. Lại thiện nam tử kia xét cùng tột tánh Không của các hành, đã diệt sanh diệt, nhưng chưa viên mãn trong chỗ tinh diệu của tịch diệt. Nếu ở chỗ quay về mà thấy có chỗ quay về nương tựa, tự nghi rằng thân tâm mình từ chỗ đó sanh ra, và cả mười phương hư không cũng đều từ đó sanh khởi, rồi ngay nơi chỗ sanh ra tất cả ấy cho là cái thể chân thường không sanh diệt. Vậy là còn trong sanh diệt mà sớm chấp là thường trụ, chẳng những đã lầm tánh bất sanh mà cũng mê tánh sanh diệt. An trụ trong mê đắm mà sanh ra cái hiểu thù thắng thì người ấy sa vào cái chấp ‘thường phi thường’ thành bè bạn với những kẻ chấp Tự tại thiên, mê lầm Giác ngộ của Phật, bỏ mất Chánh tri kiến.

Đó gọi là hạng thứ ba, lập ra cái tâm nhân y, thành cái quả vọng so tính, trái xa tánh Viên thông, ngược với đạo Niết bàn, thành ra giống ‘đảo điên’.

 

Chưa viên mãn trong chỗ tinh diệu của tịch diệt, chưa hoàn toàn đạt tánh Không vì còn trong thức, lại cho cái chỗ sanh ra tất cả ấy là cái thể chân thường không sanh diệt. Vậy là còn trong sanh diệt mà sớm chấp là thường trụ. Bởi vì chẳng lẽ cái không sanh diệt lại sanh ra cái sanh diệt?Thế là đã lầm tánh bất sanh mà cũng mê tánh sanh diệt cho là có tánh sanh diệt.

Do đó mà trái với tánh viên thông, ngược với ý nghĩa đích thực của Niết bàn. Chung quy vẫn cũng là “tri kiến lập tri, tức gốc vô minh; tri kiến vô kiến, đó là Niết bàn”, dù ở đây cái ‘lập tri’ này là cùng cực vi tế.

 

  1. Lại thiện nam tử kia xét cùng tột tánh Không của các hành, đã diệt sanh diệt, nhưng chưa viên mãn trong chỗ tinh diệu của tịch diệt. Nếu nơi chỗ hay biết, cái hay biết tròn đầy cùng khắp bèn nhân cái biết ấy mà lập ra cái kiến giải rằng cỏ cây mười phương đều gọi là hữu tình, cùng với người không khác. Cỏ cây sanh làm người, người chết trở lại thành cỏ cây mười phương. Nơi cái hay biết cùng khắp, không có lựa chọn mà sanh ra cái hiểu thù thắng, thì người ấy sa vào cái chấp ‘tri vô tri’, thành bè bạn với nhóm Bà Tra, Tiểu Ni chấp tất cả đều có hay biết, mê lầm Giác ngộ của Phật, bỏ mất Chánh tri kiến.

Đó gọi là hạng thứ tư suy tính cái tâm Viên tri thành cái quả sai lầm, trái xa tánh Viên thông, ngược với đạo Niết bàn, thành ra giống ‘đảo tri’.

 

Khi cảm nhận cái biết tròn đầy cùng khắp, cỏ cây đều ở trong cái biết ấy nên cũng gọi là hữu tình, người và cỏ cây đều ở trong cái biết ấy nên cũng là hữu tình, người và cỏ cây sống chết rồi biến thành nhau. Chấp tất cả đều có hay biết, đây là một biên kiến, vì đâu có phải ai ở trong tánh giác thì cũng giác như nhau đâu? Và tánh giác thì chẳng phải “tức là”, chẳng phải là “chẳng phải”. Cái trung đạo của Phật giáo phải cẩn thận trong định huệ mới thấu rõ mà không lọt vào các biên kiến ngoại đạo.

 

  1. Lại thiện nam tử ấy xét cùng tột tánh Không của các hành, đã diệt sanh diệt, nhưng chưa viên mãn trong chỗ tinh diệu của tịch diệt. Nếu ở trong chỗ viên dung của các căn dùng thay lẫn nhau đã được tùy thuận bèn ở nơi tánh viên dung biến hóa phát sanh các thứ mà cầu cái ánh sáng của hỏa đại, thích cái thanh tịnh của thủy đại, ưa cái toàn khắp của phong đại, ngắm cái thành tựu của địa đại. Rồi sùng phụng mỗi mỗi cái, cho các đại kia là bản nhân, lập thành cái nhận thức thường trụ thì người ấy sa vào cái chấp ‘sanh vô sanh’ thành bè bạn của nhóm Ca Diếp Ba và Bà La Môn, đem hết thân tâm thờ lửa, thờ nước để cầu ra khỏi sanh tử, mê lầm Giác ngộ của Phật, bỏ mất Chánh tri kiến.

Đó gọi là hạng thứ năm, chấp trước sùng phụng, mê tâm theo vật, lập ra cái nhân hư vọng để cầu cái quả hư giả, trái xa tánh Viên thông, ngược với đạo Niết bàn, thành ra giống ‘điên hóa’.

  1. Lại thiện nam tử ấy xét cùng tột tánh Không của các hành, đã diệt sanh diệt, nhưng chưa viên mãn trong chỗ tinh diệu của tịch diệt. Nếu nơi tánh viên minh, chấp cái rỗng không trong viên minh, bác bỏ hoại diệt các sự vật biến hóa. Lấy sự vĩnh viễn diệt mất làm chỗ quy y, rồi sanh ra cái hiểu thù thắng thì người ấy sa vào cái chấp ‘quy vô quy’, thành bè bạn của nhóm Thuấn Nhã Đa trong Vô tưởng thiên, mê lầm Giác ngộ của Phật, bỏ mất Chánh tri kiến.

Đó gọi là hạng thứ sáu, viên thành cái tâm hư vô thành cái quả không vong, trái xa tánh Viên thông, ngược với đạo Niết bàn, thành ra giống đoạn diệt.

  1. Lại thiện nam tử ấy xét cùng tột tánh Không của các hành, đã diệt sanh diệt, nhưng chưa viên mãn trong chỗ tinh diệu của tịch diệt. Nếu nơi tánh viên thường củng cố cái thân cho thường trụ đồng như tánh ấy, mãi không suy mất mà sanh ra cái hiểu thù thắng thì người ấy sa vào cái chấp ‘tham phi tham’, thành bè bạn của nhóm A Tư Đà, cầu được mạng sống lâu dài, mê lầm Giác ngộ của Phật, bỏ mất Chánh tri kiến.

Đó gọi là hạng thứ bảy, chấp trước cội nguồn mạng căn, lập cái nhân củng cố vọng thân hướng đến cái quả kéo dài sự nhọc nhằn lâu dài, trái xa tánh Viên thông, ngược với đạo Niết bàn, thành ra giống ‘Kéo dài hư vọng’.

  1. Lại thiện nam tử ấy xét cùng tột tánh Không của các hành, đã diệt sanh diệt, nhưng chưa viên mãn trong chỗ tinh diệu của tịch diệt. Xét mạng căn thông lẫn nhau, muốn giữ lại cái trần lao, sợ nó tiêu hết. Bèn ở nơi giới hạn này, ngồi cung hoa sen, hóa ra nhiều thứ bảy báu cùng nhiều mỹ nữ, buông lung tâm mình mà sanh cái hiểu thù thắng thì người ấy sa vào cái chấp ‘chân vô chân’, thành bè bạn của nhóm Tra Chỉ Ca La, mê lầm Giác ngộ của Phật, bỏ mất Chánh tri kiến.

Đó gọi là hạng thứ tám, lấy cái nhân suy nghĩ tà, thành cái quả trần cảnh lẫy lừng, trái xa tánh Viên thông, ngược với đạo Niết bàn, thành ra giống thiên ma.

 

Do hiểu lầm tánh hỏa đại, thủy đại cộng thêm cái tham bèn thờ lửa, thờ nước. Do chấp cái rỗng không trong tánh viên minh, bác bỏ sự vật, lấy chỗ vĩnh viễn diệt mất làm chỗ quy y thì lọt vào vô tưởng thiên. Do hiểu lầm tánh thường trụ rồi muốn cái thân này cũng thường trụ như tánh, thành giống ‘kéo dài hư vọng’. Do tham đắm mạng căn, tạo ra cõi cho mạng căn ấy thì thành giống thiên ma. Tất cả đều chấp có, chấp Không cộng với phiền não tham sân si mà thành.

Cho nên người tu hành cần luôn luôn giữ Chánh tri kiến Trung đạo và diệt trừ phiền não trong từng đoạn đường. Nếu không sẽ rơi vào lối rẽ uổng mất đời tu hành.

 

  1. Lại thiện nam tử ấy xét cùng tột tánh Không của các hành, đã diệt sanh diệt, nhưng chưa viên mãn trong chỗ tinh diệu của tịch diệt. Ở trong chỗ cội gốc rỗng sáng của sinh mạng mà phân biệt cái tinh, cái thô để quyết ra chân ngụy; nơi nhân quả đền đáp nhau, chỉ cầu cảm ứng, trái với đạo thanh tịnh, nghĩa là thấy khổ đế, đoạn tập đế, chứng diệt đế, tu đạo đế mà trụ trong diệt cho là xong, không chịu tiến tới rồi sanh cái hiểu thù thắng. Người ấy sa vào hàng định tánh Thanh Văn, thành bè bạn của nhóm tăng Vô Văn tăng thượng mạn, mê lầm Giác ngộ của Phật, bỏ mất Chánh tri kiến.

Đó gọi là hạng thứ chín, viên mãn tâm ứng với sự thuần khiết, thành cái quả hướng tịch, trái xa tánh Viên thông, ngược với đạo Niết bàn, thành hạng ‘vướng mắc nơi Không’.

 

Hàng định tánh Thanh Văn là lúc sơ phát tâm đã quyết diệt khổ và sẽ chứng được diệt khổ ở cấp độ thứ tư là A La Hán. Vì chỉ lo diệt khổ cho mình, không thấy thế gian khổ, cho nên không có lòng đại bi mở rộng cho tất cả chúng sanh do đó không chịu tiến tới, dừng lại giữa đường, mà chứng cái quả hướng tịch, gọi là trói buộc nơi Không. Kinh nói là “tu đạo đế mà trụ trong diệt cho là xong, không chịu tiến tới”... Hàng Thanh Văn đắc được Hữu dư y Niết bàn, và nhập diệt gọi là Vô dư y Niết bàn.

Hàng Bồ tát thì thấy khổ của mình và của người, diệt khổ cho mình và cho người, nên thay vì chỉ nhắm đến trí huệ tánh Không thì còn có tâm đại bi cứu độ chúng sanh nên lên đến quả Phật, cả hai trí huệ và đại bi viên mãn. Khổ của mình và khổ của người không hai, nên trí huệ và đại bi không hai.

Nếu hàng Thanh Văn chỉ chú ý đến phương diện Tịch của tánh Diệu Minh thì hàng Bồ tát còn chú ý đến phương diện Chiếu. Trong cái Chiếu này mới có chúng sanh để độ, đây là sự ánh hiện, chiếu hiện của tánh Diệu Minh. Chính nơi phương diện Chiếu này mà tâm đại bi hoạt động, và sự chiếu hiện thì như huyễn nên đại bi hoạt động mà như huyễn. Đây là con đường Bồ tát.

Con đường Thanh Văn là con đường của Không, con đường Bồ tát là con đường của Không-Minh. Do đó Niết bàn của Bồ tát là Niết bàn vô trụ xứ.

 

  1. Lại thiện nam tử ấy xét cùng tột tánh Không của các hành, đã diệt sanh diệt, nhưng chưa viên mãn trong chỗ tinh diệu của tịch diệt. Nếu ở trong tánh Giác Minh viên dung thanh tịnh phát minh chỗ thâm diệu bèn lập đó là Niết bàn mà không tiến tới, sanh cái hiểu thù thắng thì người ấy sa vào hàng định tánh Độc Giác, thành bè bạn của các vị Duyên Giác Độc Giác, không hồi tâm hướng Đại thừa, mê lầm Giác ngộ của Phật, bỏ mất Chánh tri kiến.

Đó gọi là hạng thứ mười, viên thành giác tâm vắng lặng, thành cái quả trong lặng sáng suốt, trái xa tánh Viên thông, ngược với đạo Niết bàn, thành hạng giác viên minh nhưng không dung hóa được viên mãn.

 

Bậc Độc Giác hay Duyên Giác là giác ngộ tánh Không nhờ quán sát Mười hai nhân duyên. Nhưng sự giác ngộ ấy vẫn chưa trọn vẹn vì tánh Không ấy không ôm ấp dung chứa được sanh tử bằng tâm đại bi, mà đứng riêng, tách lìa khỏi sanh tử. Đây là chỗ Kinh nói, “ở trong tánh Giác Minh thanh tịnh, phát minh chỗ thâm diệu bèn lập đó là Niết bàn mà không tiến tới, thành định tánh Độc Giác”.

Cả hai, hàng A La Hán và hàng Độc Giác thiếu công đức của Bồ tát hạnh, vốn biểu lộ thành ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp phụ của một vị Phật. Bởi thế mà kinh nói “không dung hóa được viên mãn”.

Hàng Thanh Văn và Độc Giác đều gọi là định tánh. Định tánh bởi vì ngay từ đầu kiên cố dùi mài đến khi lên cao thì không sửa chữa được, khó hồi tâm được. Ngài A Nan, nhân vật chính của Kinh này mặc dù đắc sơ quả Thanh Văn nhưng ngài là Đại thừa, vì chỉ riêng việc xin Đức Phật cho nữ giới xuất gia cũng đủ cho thấy lòng từ bi của ngài rất lớn.

 

A Nan, mười loại Thiền na này, giữa đường thành mê cuồng, do nương mê lầm trong chỗ chưa đủ lại cho đã chứng đầy đủ, đều do thức ấm và tâm dụng công giao xen nên sanh các địa vị như vậy. Chúng sanh mê muội không biết tự xét, gặp cảnh đó hiện tiền, mỗi mỗi dùng cái tâm mê lầm ưa thích những tập quán cũ mà tự dừng nghĩ, cho đó là chỗ quay về an ổn rốt ráo, tự bảo đã đầy đủ Giác ngộ vô thượng, thành đại vọng ngữ. Các ngoại đạo tà ma khi nghiệp báo chiêu cảm hết rồi thì sa vào địa ngục Vô gián. Hàng Thanh Văn, Duyên Giác thì không thể tiến tới thêm.

 

Mười thức ấm ma trong Thiền na là do năm ấm và tâm dụng công giao xen rồi nhận thức, tìm cách tiến tới bằng cái tâm chúng sanh “ưa thích những tập quán cũ, rồi tự dừng nghĩ cho đó là chỗ quay về an ổn rốt ráo” mà thành. Tập quán cũ này đã được tích tập suốt thời gian sanh tử nên không dễ đoạn trừ. Nếu không có một một vị thầy trực tiếp chỉ dạy thì có khi càng tu lại bỏ mất chánh tri kiến mà tăng thêm tập quán cũ thành định tánh.

Nói chung để khỏi lọt vào năm mươi ma ấm thì phải chớ “bỏ mất Chánh tri kiến”. Chánh tri kiến là căn bản trí hay tự nhiên trí hay vô sư trí, thấy trực tiếp tánh Không- Minh. Chánh tri kiến ấy phải đi kèm công đức càng ngày càng tăng, nguyện càng ngày càng lớn, và sự hộ trì của chư Phật, chư Bồ tát.

 

Các ông để tâm giữ gìn đạo Như Lai nên đem pháp môn này sau khi ta diệt độ, truyền dạy cho đời mạt pháp, khiến cho khắp chúng sanh hiểu rõ nghĩa này, không để cho những ma tà kiến gây ra nạn lớn cho mình, bi mẫn cứu giúp tiêu hết duyên tà, khiến cho thân tâm được vào tri kiến Phật, từ lúc bắt đầu đến thành tựu, không gặp các đường tẻ.

Pháp môn như thế, các đức Như Lai như số vi trần trong hằng sa kiếp quá khứ đều nương vào đây mà tâm khai ngộ, đắc đạo vô thượng.

 

Đức Phật dặn dò những Bồ tát đời sau đem pháp môn này truyền dạy cho chúng sanh, bi mẫn cứu giúp chúng sanh, không để cho các ma tà kiến gây ra nạn lớn cho mình, được vào tri kiến Phật, vào Pháp thân Phật cho đến lúc thành tựu.

Pháp môn xoay các căn về nguồn tánh này là “một đường đến Niết bàn, của mười phương chư Phật”, tất cảchúng sanh, nhất là ở cõi Diêm Phù Đề này, cần trân trọng giữ gìn, thọ trì miên mật và diễn nói cho người khác.

 

Thức ấm hết sạch rồi thì ngay hiện tiền các căn của ông có thể dùng thay lẫn nhau. Từ chỗ các căn dùng thay lẫn nhau, bèn vào Kim cương Càn huệ địa Bồ tát, cái tâm tinh diệu viên minh, trong đó phát hóa như ngọc lưu ly thanh tịnh ngậm mặt trăng báu ở trong.

Như thế bèn siêu vượt Thập Tín, Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, Tứ Gia Hạnh Tâm và Thập Địa Kim cương là chỗ hành của Bồ tát, cho đến Đẳng Giác viên minh, nhập vào biển diệu trang nghiêm Như Lai, viên mãn đạo Giác Ngộ, về trong Vô sở đắc.

 

Ở trước đoạn nói về những quả vị, “Càn huệ địa trong tâm Kim cương là Đẳng Giác”, như vậy Kim cương Càn huệ địa Bồ tát ở đây là Đẳng Giác, tức là đã siêu vượt khỏi năm mươi bốn địa vị từ Thập Tín cho đến Thập Địa.

Sự phá trừ năm ấm diễn ra suốt con đường Phật đạo, đặc biệt hiệu quả và rõ ràng là trong Thập Địa. Ở đây một phần năm ấm tiêu trừ thì một phần tánh Minh Diệu hay Pháp thân hiển lộ. Cho đến khi hoàn toàn hết thức ấm là hết Thập Địa, lên Đẳng Giác.

Phá trừ cũng là chuyển hóa. Phá trừ năm ấm là chuyển hóa chúng về tánh bổn nguyên của chúng, mà Mật giáo gọi là Năm Đức Phật bổn nguyên. Khi chuyển hóa được chúng trở về nguồn tánh thì sáu căn có thể dùng thay nhau, sáu căn trở thành ‘‘diệu đức’’: ‘‘Nếu tất cả sự thấy nghe hay biết tánh chúng tròn đầy toàn khắp vốn không động, thì phải biết hư không bất động vô biên và bốn đại đất nước lửa gió lay động, tánh chúng là chân thật viên dung vốn là Như Lai tạng vốn không sanh diệt…Như một nhãn căn thấy khắp pháp giới thì cái biết nghe, biết ngửi, biết nếm, biết xúc, biết các pháp, diệu đức sáng rỡ toàn khắp pháp giới, tròn đầy mười phương hư không’’.

Kinh nói theo thứ tự từng ấm, từ sắc ấm đến thức ấm. Nhưng các ấm thông với nhau, nên nếu một phần sắc ấm hay thọ ấm bị phá thì một phần nhỏ hơn ba ấm kia bị phá. Bởi thế cho nên trong Bốn niệm xứ, thân, thọ, tâm, pháp, chỉ cần một cái bị phá sạch, thì ba cái kia cũng tiêu tan.

Khi các phiền não chướng và sở tri chướng, khi chấp ngã và chấp pháp hết sạch, thì ngay đó là đạo Giác ngộ, đó là chỗ Vô sở đắc, ‘‘sáu mở một tiêu’’, hay nói như Kinh Viên Giác, “Niết bàn sanh tử chỉ là giấc mộng đêm qua, chúng sanh bổn lai thành Phật”.

 

Đó là những ma sự vi tế mà chư Phật Thế Tôn đời quá khứ đã biết rõ và phân tích trong lúc tu Chỉ và tu Quán. Nếu khi ma cảnh hiện tiền mà ông rõ biết thì tâm dơ nhiễm bèn được rửa trừ, không lạc vào tà kiến, ấm ma tiêu diệt, thiên ma bị đánh tan, đại lực quỷ thần hết hồn chạy trốn, ly mỵ vọng lượng chẳng còn sanh ra, thẳng đến Giác ngộ không có thiếu sót. Hàng hạ liệt tăng tiến, đối với Đại Niết bàn tâm không mê muội.

Nếu các chúng sanh ngu độn trong đời mạt pháp chưa biết Thiền na, chẳng rõ lời thuyết pháp mà ưa tu tam muội, ông e rằng họ lạc vào đường tà thì phải nhất tâm khuyên bảo họ trì chú Phật đảnh đà la ni của ta. Nếu chưa có thể trì tụng thì nên viết trên thiền đường hoặc đeo nơi thân thì tất cả các ma không thể động đến. Ông nên kính vâng sự dạy bảo cuối cùng về đường tiến tu rốt ráo của mười phương Như Lai.

 

Nếu khi cảnh ma hiện tiền mà hay biết rõ, thì ngay khi ấy tâm dơ nhiễm được rửa trừ. Trong một ngày chúng ta tiếp xúc biết bao nhiêu là sắc thọ tưởng hành thức hiện tiền, nếu ngay lúc ấy rõ biết, nghĩa là thấy ra thực tướng của chúng thì phần tâm dơ nhiễm liên hệ với chúng được rửa trừ, bao nhiêu loại ma đều tiêu diệt. Hết ấm, hết ma thì biển diệu trang nghiêm Như Lai hiện tiền.

Nhưng nếu tập quán cũ đã nhiều kiếp cứ khiến tự lừa dối mình và lừa dối người thì phải trì chú Lăng Nghiêm, hoặc treo lên hoặc đeo nơi thân. Nghiệp chướng có bớt đi thì mới thấy mình đã từng và có thể còn chơi thân với ma như thế nào. Lúc ấy mới nói được rằng rõ biết khi ma hiện tiền được.

 

-----oo0oo-----

Trích: "Kinh Lăng Nghiêm - Hành Giải"

Dịch và giảng giải: Đương Đạo

NXB Thiện Tri Thức-2016

Ảnh: Nguồn internet

 

Bài viết liên quan