PHÁT TRIỂN SIÊU VIỆT - QUẢ ĐẤT QUÊ HƯƠNG – EDGAR MORIN & ANNE BRIGITTE KERN

PHÁT TRIỂN SIÊU VIỆT

QUẢ ĐẤT QUÊ HƯƠNG – EDGAR MORIN & ANNE BRIGITTE KERN

-------o0o-------

Tất cả mọi xã hội, cá nhân đều sống trong mối liên hệ quá khứ/ hiện tại/ tương lai với một tương quan biện chứng, ở đó ba từ này đều phối hợp chặt chẽ với nhau.
PHÁT TRIỂN SIÊU VIỆT - QUẢ ĐẤT QUÊ HƯƠNG – EDGAR MORIN & ANNE BRIGITTE KERN

Sự phát triển là một mục tiêu, nhưng nó không thể là một mục tiêu thiển cận hay một mục tiêu cuối cùng. Chính mục tiêu của phát triển còn tuỳ thuộc vào một số mục tiêu khác. Những mục tiêu này là gì? Đó là làm sao để có thể sống thật sự và sống tốt hơn.

Thật sự và tốt hơn nghĩa là thế nào?

Là sống trong sự thông cảm, đoàn kết, có tình. Sống mà không bị bóc lột, nhục mạ, khinh bỉ.

Nói như thế có nghĩa là mục tiêu của phát triển thuộc phạm vi những đòi hỏi thiết yếu của đạo đức. Yếu tố kinh tế phải được cân nhắc và phải lấy luân lý nhân loại làm tiêu chuẩn. Vì thế, trên con đường tiến hoá nhân loại chúng ta cần có một hứa hẹn hoặc một chắc chắn tuyệt đối nào về một quy luật tiến bộ nữa.

Ngoài ra, như chúng ta đã đề cập, tất cả những gì xem như của cải nhân loại gặt hái được, kể cả mức phát triển ngừng tự đổi mới tất sẽ bị thoái hoá. Chúng ta hãy nhìn lại những lần thoái hoá lịch sử và những thảm hoạ văn minh mà các nhà tư tưởng vì quá tin vào thuyết tiến bộ đã chủ ý muốn quên. Chúng ta phải nhận thức rằng sự phát triển của tiến hoá nhân loại nằm trong một vận mệnh có tính ngẫu nhiên, cái vận mệnh phiêu bạt bất định của loài người.

Nhận thức về sự phiêu bạt bất định là nguồn gốc của những lo lắng và bất trắc, bởi vì nó phá vỡ những xác tín, sự ổn định và cái tuyệt đối, bởi vì trong cuộc phiêu lưu này, không có cái kết cuộc hạnh phúc (có hậu). Và trong cuộc phiêu lưu này, sự phát triển của tiến trình cá thể hoá là nguồn gốc của những bất trắc và lo lắng ngày càng gia tăng. Tiêu thụ như điên cuồng, rồ dại đang lan tràn cũng như trăm nghìn thứ ăn chơi giải trí hiện đại đều là một phản ứng đối với tâm trạng lo lắng của sự cá thể hoá. Và nỗi lo lắng này một khi bị đè nén, càng trở nên sâu đậm hoặc hung hãn hơn.

Điều này liên quan đến việc cải cách tư tưởng và cuộc sống mà chúng ta sẽ đề cập ở phần sau.

Có nên gói ghém tất cả vận mệnh của tiến hoá nhân loại trong quan niệm phát triển không?

Trong những mục tiêu mà chúng ta đã dẫn: sống thật sự, sống tốt hơn còn có sự tìm tòi một cái gì đó cao xa hơn sự phát triển. Nghĩa phát triển ở đây vượt khỏi sự phát triển: ví dụ phát triển tình yêu âm nhạc không có nghĩa lịch sử âm nhạc là một sự phát triển tiệm tiến theo đó Beethoven thì hay hơn Bach hoặc Richard Strauss hay hơn Beethoven.

Ngay cả khi nó chứa đựng khía cạnh tiến hoá nhân loại, quan niệm phát triển, đúng như nghĩa của danh từ này muốn nói: bày ra, trải ra, căng ra, cũng chưa đầy đủ. Cần phải làm sáng tỏ quan hệ biện chứng của sự bất túc này với ý niệm bao bọc (enveloppement) và thoái bộ (involution). Lúc ấy nó sẽ đưa ta quay ngược về nguồn gốc, về thời mông muội, rơi vào chiều sâu của bản thể, ngụp lặn vào cái cũ xưa, tái hồi, quên mất bản thân, quay vào cõi nhiệm mầu của bụng mẹ, chìm vào trong thiên nhiên, tái nhập vào thần thoại, tìm về vô độ và hoà bình không lời.

Ôi, đương nhiên! Shelley, Novalis, Holderling, Pouchkine, Rimbaud, Bach, Mozard, Schubert, Beethoven, Moussorgski, Berg là kết tinh lịch sử của một quá trình phát triển văn minh. Nhưng những tác phẩm của họ lại vượt lên trên sự phát triển này, nó nói lên sự tồn tại của chúng ta trên thế giới, nó kể cho chúng ta nghe về cái khó diễn đạt bằng ngôn từ, nó đưa chúng ta đến chỗ xuất thần, nơi mà gông cùm của thời gian và không gian không còn nữa.

Tất cả những gì đến từ bản chất cơ bản của tư duy đều xuyên suốt lịch sử, tác động ngược lại quá khứ cho đến căn nguyên, lặn vào những vực thẳm trong tâm hồn chúng ta và phóng về phía trước tương lai.

Thế thì chúng ta có thể đề xuất ý niệm phát triển siêu việt hay không? Có nghĩa là một cái gì đó còn xa hơn phát triển mà sự phát triển (có lẽ ?) sẽ cho phép đạt được và nói đúng ra đáng lẽ nó phải cho phép.

Tìm lại liên hệ quá khứ - hiện tại - tương lai

Tất cả mọi xã hội, cá nhân đều sống trong mối liên hệ quá khứ/ hiện tại/ tương lai với một tương quan biện chứng, ở đó ba từ này đều phối hợp chặt chẽ với nhau.

Những xã hội truyền thống thì sống trong hiện tại và tương lai mình dưới sự chỉ huy của quá khứ. Những xã hội gọi là đang trên đường phát triển gần đây còn sống dưới sự đòi hỏi của tương lai trong khi tìm cách giữ gìn bản sắc quá khứ và an bài cho được sao hay vậy cái hiện tại của mình. Những xã hội giàu có sống dưới sự chi phối đồng thời của hiện tại lẫn tương lai và nhìn thấy cái quá khứ của mình ra đi một cách vui vẻ rồi buồn bã.

Mối liên hệ quá khứ/ hiện tại/ tương lai, được sống rất khác nhau bởi mỗi người, tuỳ mỗi lúc và như vậy đã hơi bị xuống cấp ở khắp nơi so với một tương lai được tô hồng. Sự khủng hoảng của tương lai gây ra một sự phình trướng của hiện tại và đẩy con người tìm về quá khứ trong xã hội Tây phương. Nó khởi động ở nhiều nơi những co cụm về với chủng tộc và/ hoặc tôn giáo. Cho nên, các chủ nghĩa nguyên giáo (trong số đó có nguyên giáo Ixlam) là phản ứng cùng một lúc đối với khủng hoảng tương lai và sự nghèo nàn của hiện tại.

Ở nhiều nơi, mối liên hệ sống động giữa quá khứ/ hiện lại/ tương lai bị khô héo, thui chột và bế tắc. Chúng ta cần phải làm cho tái sinh mối liên hệ này mà vẫn giữ được sự cân bằng giữa ba yếu tố nghĩa là không thổi phồng cái nào lên cả.

Sự đổi mới và phức tạp hoá cái liên hệ quá khứ/ hiện tại tương lai phải được xem như một trong những mục tiêu của chính sách tiến hoá nhân loại.

Tìm về với nguồn gốc trong quá khứ có thể được thực hiện trong và bởi hai nguyên tắc đã nói trên. Cái đầu tiên xác nhận quyền sống của tất cả các văn hoá, mà không quên rằng chúng không phải đều là những thực thể đã đạt được mức độ hoàn hảo: mỗi cái đều có những kém cỏi, mù quáng, thiếu sót riêng và những phẩm chất của chúng cho phép cuộc sống của các thành viên được khởi sắc thì lại rất không đồng đều.

Thêm vào đó chúng ta không được quên rằng tất cả những văn hoá đặc thù đều thu lượm được nét đặc thù của chúng qua gặp gỡ, hấp thụ những yếu tố ngoại lai, thường thuộc về văn hoá của kẻ chinh phục hay kẻ bị chinh phục; cũng giống như những loài sinh vật, tất cả những văn hoá đều trải qua những thay đổi, đột biến, và nhiều cái đã tự phức tạp hoá bằng cách tiếp nhận những gì mà khởi thuỷ đã đe doạ hoặc nhiễu loạn nó.

Dù thế nào đi nữa, phong trào trở về nguồn mang tính chủng tộc, quốc gia, tôn giáo sẽ trở thành thoái hoá một khi chỉ chú mục vào quá khứ, vì như vậy nó sẽ làm thui chột cái quan hệ với hiện tại và tương lai.

Nguyên tắc thứ hai của sự tìm về nguồn là nguyên tắc tái đầu tư cần thiết vào quan hệ mật thiết giữa ba đặc tính: nhân loại, sinh vật, địa cầu. Ba thứ này, vì cùng tồn tại nơi mọi con người, sẽ không hề ngăn cản những sự tìm về nguồn mang tính đặc thù. Quá khứ không chỉ là quá khứ riêng biệt của một sắc tộc hoặc một quốc gia nào, nhưng nó là cái quá khứ của quả đất, của tiến hoá và của bản thân loại mà con người phải chiếm hữu và tiếp thu.

Mối liên hệ với hiện tại, tức là sống và hưởng thụ không thể nào bị hy sinh cho một quá khứ độc đoán và một tương lai hư ảo. Hôm nay, nó còn chứa đựng cả sự tham dự từ xa vào sinh hoạt toàn cầu và khả năng nối mạng vào nhiều nền văn hoá trên thế giới cũng như vào chính nền văn hoá và phônklo toàn cầu.

Ngoài ra và quan trọng hơn nữa là chính trong hiện tại mà sự khởi sắc của cuộc sống mới có thể thể hiện và vượt qua được sự phát triển. Vòng tuần hoàn, qua lại giữa quá khứ/ hiện tại/ tương lai sẽ khôi phục cường độ cụ thể của cuộc sống, một trọng điểm của hiện tại. Như thánh Augustin đã nói: “Có ba loại thời gian trên đời: hiện tại của quá khứ, hiện tại của hiện tại và hiện tại của tương lai”.

Cuối cùng, mối liên hệ với tương lai phải được tiếp lại cho thêm sức sống, nhất là khi bản thân tiến trình tiến hoá nhân loại là một sự vươn về tương lai. Không phải về một tương lai hư ảo với tiến bộ được bảo đảm vĩnh viễn, mà là một tương lai có tính ngẫu nhiên, không chắc chắn, nhưng mở ra trên vô vàn khả năng mà khát vọng và mục tiêu con người có thể hướng đến tuy chưa chắc gì đã đạt được.

Trong ý hướng mới này thì sự khôi phục lại tương lai có một tầm quan trọng hàng đầu và một tính khẩn cấp cao độ đối với nhân loại.

Mối quan hệ trong – ngoài

Con người luôn luôn bị đẩy về hai hướng đối nghịch. Một mặt là hướng ngoại, một sự hiếu kỳ đối với thế giới bên ngoài như du lịch, thám hiểm, nghiên cứu khoa học và ngày nay nó được nối dài ra về hướng thăm dò vũ trụ. Mặt khác, hướng nội, là quay vào cuộc sống nội tâm, suy nghĩ và trầm tư mặc tưởng.

Từ thuở đầu của những nền văn minh, đã có những nhà thiên văn nhìn lên trời và những người trầm tư quay vào với đầu óc của riêng mình. Thời nào cũng có những kỹ thuật gia, những triết gia thần bí, lại có cả khả năng thay đổi cái thiên tư này.

Hiện nay, cái thiên tư hướng về vũ trụ càng ngày càng mạnh: ra đi, rời quê hương đến những hành tinh khác, xа hơn nữa. Tuy nhiên, lập nên những cơ sở không gian sẽ đòi hỏi sự hợp tác, đoàn kết ở địa cầu phải được giải quyết xong. Và ngay cả trong một giả thuyết khoa học viễn tưởng về một cơ sở liên bang đồ sộ thoát thai từ địa cầu thì cái cơ sở này sẽ càng trở thành tổ quốc đầu tiên khi nó là nơi mà con người không cần dùng những hệ thống nhân tạo, những vòm ôxy, những nhà kính khổng lồ cho cây cối, súc vật...

Thiên tư hướng nội, từ lâu nay bị đẩy lùi và đẩy ra bên lề của cái hiện đại Tây phương đã bắt đầu có tiếng nói của mình. Nơi này, nơi nọ, vì muốn thoát khỏi chủ nghĩa tích cực, khỏi những bồn chồn, náo động, những trò tiêu khiển, con người đã hướng về sự ổn định nội tâm, một sự thanh thản không đến từ ma dược mà từ một sự trù dưỡng tinh thần.

Quy hoạch quả đất không có nghĩa là từ bỏ sự thăm dò thế giới vật chất và cái viễn tưởng của chuyến du hành ngoài vũ trụ, cũng không phải từ bỏ sự tìm tòi nội tâm. Cả hai thiên chức này vẫn phải được tiếp tục, cả hai cái cùng từ quả đất, cùng giao lưu với một cõi bên kia.

Văn minh hoá văn minh

Tiến trình tiến hoá nhân loại, cái mà có thể đưa chúng ta thoát ra khỏi thời đại đồ sắt toàn cầu đang thôi thúc chúng ta cải cách nền văn minh Tây phương, nền văn minh đã lan tràn trên toàn cầu với của cải giàu có cũng như những khốn khổ của nó. Chỉ có làm như thế chúng ta mới có thể hoàn tất kỷ nguyên văn minh toàn cầu mà thôi.

Không có gì khó thực hiện cho bằng niềm mơ ước có được một nền văn minh tốt đẹp hơn.

Giấc mơ làm cho con người được phát huy toàn diện, xoá bỏ được tất cả những hình thức bóc lột và thống trị, tìm được sự phân chia của cải công bằng, sự đoàn kết hữu hiệu của mọi người, đạt được hạnh phúc toàn diện. Cái giấc mơ này đã từng lôi cuốn bao kẻ muốn áp đặt nó vào con đường sử dụng những phương tiện man rợ làm cho sự nghiệp văn minh của họ cuối cùng đã thành đống gạch vụn. Tất cả những quyết định bãi bỏ xung đột và hỗn loạn, thiết lập hài hoà và tính công khai thường đưa đến kết quả ngược lại và những hậu quả tai hại của chúng đã quá rõ ràng.

Lịch sử của thế kỷ này cho chúng ta thấy ý chí muốn thiết lập sự cứu rỗi trên mặt đất lại đưa đến nơi này một địa ngục. Chúng ta không nên một lần nữa lại rơi vào giấc mơ tạo nên thiên đường trên trái đất. Mục tiêu chính của chúng ta là muốn có một thế giới tốt đẹp hơn không có nghĩa là muốn một thế giới tốt đẹp nhất.

-------o0o-------

Trích: QUẢ ĐẤT QUÊ HƯƠNG

Người dịch: Nguyễn Hồi Thủ

NXB Lao Động

Ảnh: Nguồn Internet.

Bài viết liên quan