THIỀN LUẬN - DAISETZ TEITARO SUZUKI - Dẫn nhập kinh điển về thiền. Nền tảng cho một cuộc sống trọn vẹn - Dương Ngọc Dũng dịch - NXB Hồng Đức 2023

THIỀN LUẬN - DAISETZ TEITARO SUZUKI

Dẫn nhập kinh điển về thiền. Nền tảng cho một cuộc sống trọn vẹn

Dương Ngọc Dũng dịch - NXB Hồng Đức 2023

--o0o--

Sư dạy chúng: “Ca-diếp truyền cho A-nan, Đạt-ma truyền cho ai?” Có ông tăng hỏi: “Nhị tổ được tủy rồi sao?” “Đừng phỉ báng Nhị tổ!”
THIỀN LUẬN - DAISETZ TEITARO SUZUKI - Dẫn nhập kinh điển về thiền. Nền tảng cho một cuộc sống trọn vẹn - Dương Ngọc Dũng dịch - NXB Hồng Đức 2023

 

Trước khi kết thúc, tôi muốn giới thiệu với quý vị độc giả một số bài pháp ngữ của các thiền sư được ghi lại trong Cảnh Đức truyền đăng lục cũng như trong các ngữ lục khác.

Sư Triệu Châu thượng đường, giảng:

1. Chuyện này giống như minh châu trong lòng bàn tay, Hồ đến Hồ hiện, Hán đến Hán hiện.

2. Có ông tăng hỏi: “Phật vì ai mà phiền não?” Sư đáp: “Phật vì tất cả mọi người mà phiền não”.

“Làm sao họ có thể giải thoát?” “Giải thoát để làm gì?”

3. Sư dạy chúng: “Ca-diếp truyền cho A-nan, Đạt-ma truyền cho ai?” Có ông tăng hỏi: “Nhị tổ được tủy rồi sao?”

“Đừng phỉ báng Nhị tổ!”

Rồi sư tiếp: “Đạt-ma có lời: Bên ngoài được da, bên trong được cốt. Không biết người ở bên trong đạt được gì?” Một ông tăng khác hỏi: “Được tủy là đạo lý gì?” “Hãy nhận thức da, còn tủy chưa lập”. “Thế nào là tủy?”, “Trong trường hợp này tìm da cũng chẳng thấy.

Những bài pháp ngữ nói chung đều giống như vậy, ngắn gọn, dân ngoại đạo rất khó hiểu, đối với họ chúng gần như vô nghĩa. Nhưng nhìn từ góc độ thiền đạo, tất cả những cơ phong ngôn hành của chư tổ đều giản dị, trình bày tông môn yếu chỉ của thiền một cách hết sức trực tiếp, rõ ràng. Lối tư duy theo kiểu danh lý không hề được sử dụng. Các bậc thầy thể hiện những chân lý mà chính họ thể nghiệm từ chính nơi sâu thẳm nhất trong tâm hồn nên họ không còn lựa chọn nào khác ngoài cách ăn nói kỳ bí ẩn mật như trên để khiến kẻ sơ cơ nhập đạo bị choáng váng lung lay tinh thần đến tận gốc rễ. Tuy nhiên, các thiền sư đều hết sức thành khẩn trong việc tiếp dẫn học nhân. Nếu có một ai phỉ báng hay trách móc cách ứng cơ tiếp vật của họ, người đó sẽ nhận được ba mươi hèo giáng lên đầu.

Bài pháp ngữ kế tiếp là của Vân Môn.

Sư thượng đường giảng: “Các ông hãy tìm ra lối vào. Vô số chư Phật nằm ngay dưới chân. Ba tạng thánh điển nằm ngay trên đầu lưỡi các ông. Không gì bằng ngộ cho tới nơi. Các hòa thượng chớ vọng tưởng! Trời là trời, đất là đất, nước là nước, tăng là tăng, tục là tục”. Ngừng một chút sư nói: “Hãy đem núi An Sơn lại đây để trước mặt ta!”.

1. Có lần sư giảng: “Bồ-tát Văn Thù tự nhiên biến thành cây gậy gỗ. Nói xong, sư đưa gậy vạch trên đất, nói: “Chư Phật nhiều như cát bụi, họp lại ở đây nói đủ thứ tào lao”. Rồi sư hạ đường.

2. Ngày kia, như lệ thường, sư lên tòa giảng pháp. Một ông tăng bước ra, vái lạy, nói: “Xin thầy một lời đáp!” Sư gọi lớn: “Chư tăng!” Tăng chúng ngoái đầu nhìn. Sư hạ đường.

3. Có lần sư thượng đường, im lặng hồi lâu. Một ông tăng bước ra, lễ bái. Sư hỏi: “Sao trễ vậy?” Ông tăng vừa mở miệng định trả lời thì sư mắng: “Đúng là đồ vô tích sự!”

Đôi khi bài pháp ngữ của Vân Môn có vẻ thiếu tôn kính đối với đức Phật. Sư giảng: “Vua Phạm Thiên và lão thầy già Thích-ca đứng trước sân bàn về Phật giáo. Sao mà ồn ào thế?”

Một dịp khác sư giảng:

“Những điều ta nói với các ông từ trước đến nay là cái gì? Hôm nay bất đắc dĩ ta lại phải nói lại với các ông lần nữa. Trong vũ trụ bao la này có cái gì chống lại các ông hay không, có cái gì trói buộc các ông hay không? Nếu có cái gì nhỏ như đầu cây kim nằm trên đường đi cản lối các người thì cứ gạt phăng nó sang một bên cho ta. Các ông cứ nói Phật, nói Tổ, nhưng Phật hay Tổ là cái gì mới được? Núi, sông, mặt trời, mặt đất, trăng sao là cái gì? Cái mà các ông gọi là tứ đại hay ngũ uẩn là cái gì?

Ta nói năng như thế, chẳng khác một bà già nhà quê trong làng. Tình cờ gặp phải một ông tăng học vấn đầy đủ, nếu ông ấy mà nghe ta giảng thì đã xách chân ta quăng ra ngoài cửa rồi. Vậy ông ta có đáng trách không? Dù gì đi nữa thì lý do là gì? Đừng để lời nói của ta làm các ông bị lung lạc rồi đưa ra những bình giảng bá láp này nọ. Trừ phi là người thấu suốt mọi sự, còn không thì đừng bao giờ làm thế. Các ông mà để một ông già như ta tình cờ nắm được là mất luôn lối về và bị ta đánh cho gãy giò. Làm vậy ta có bị trách móc gì không? Nếu vậy có ai muốn biết tông chỉ của Vân Môn là cái gì không? Bước ra đây cho ta trả lời luôn! Sau vụ này thì các ông sẽ được chuyển hóa, ung dung tự tại tha hồ muốn đi đông đi tây gì cũng được.”

Một ông tăng bước ra vừa định hỏi thì Vân Môn dùng trượng đánh vào miệng rồi hạ đường.

Một ngày kia khi sư đến pháp đường thì nghe tiếng chuông vang lên, sư bèn hỏi tăng chúng: “Trong thế giới bao la này, tại sao nghe chuông đổ thì phải mặc cà sa vào?”

Một lần khác sư chỉ nói: “Đừng thêm đá lạnh vào tuyết nữa, hãy trân trọng bản thân. Xin chào!” Xong sư đi ra.

“Nhìn kìa, Phật đường nối dài vào tận trong phòng của chư tăng!” Sau đó sư nói: “Chúng đang đánh trống ở Lạc Phố, đang có múa ở Triệu Châu”.

Vân Môn ngồi trên ghế trước hội chúng, im lặng một lúc rồi nói: “Mưa lâu quá, chẳng có một ngày nắng”.

Một lần khác, sư nói: “Nhìn kìa, chẳng còn một chút sức sống!” Sư làm ra vẻ như sắp ngã, hỏi: “Hiểu không? Không hiểu thì bảo cây gậy này nó soi sáng cho!”

Sư Dương Kỳ, một danh tăng trong đời nhà Tống, thượng đường không nói gì, lát sau phá ra cười ha hả, nói: “Gì vậy? Thôi về phòng uống trà đi!”

Một ngày kia sư lên tòa nói pháp, mọi người vân tập đầy đủ. Sư không nói gì, bất thần ném cây trượng ra xa, nhảy xuống ghế. Môn hạ định ra về thì nghe tiếng sư gọi: “Các vị!”. Mọi người quay lại. Sư nói: “Dẹp cây trượng đi!” Rồi sư về thất.

Sư Dược Sơn gần đây không thượng đường giảng pháp nên thủ tọa yêu cầu sư cho một bài pháp ngữ. Sư nói: “Được! Đánh trống lên!” Tăng chúng tụ tập chờ nghe pháp. Sư bỏ vào phòng. Thủ tọa theo hỏi: “Thầy hứa giảng pháp. Sao không nói một lời?” Sư đáp: “Kinh thì có pháp sư giảng, luận thì có luận sư giảng. Ông trách ta nỗi gì?”.

Sư Pháp Diễn ngày kia thượng đường. Sư đứng im lặng, hết nhìn bên trái lại nhìn bên phải. Cuối cùng sư giơ cao cây gậy lên nói: “Chỉ dài có một thước”. Rồi sư hạ tòa, không nói gì thêm.

Những trích dẫn nói trên từ Vân Môn, Triệu Châu, và nhiều thiền sư khác, cũng đủ cho độc giả làm quen với loại pháp ngữ phổ biến trong thiền viện để giúp nâng cao năng lực trí tuệ hay siêu trí tuệ của học tăng. Thông thường các bài pháp thoại đều ngắn gọn. Các thiền sư không mất thời gian giảng giải về thiền, không phải vì nó vượt qua khả năng thấu hiểu lý thuyết của mọi người, nhưng chính là vì những giải thích như vậy không đem lại lợi ích thực tiễn lâu dài cho việc giáo hóa tâm đạo cho môn sinh.

Chính vì thế, những nhận xét của các thiền sư cần phải thật ngắn gọn. Đôi khi họ thậm chí còn không mở miệng thốt ra lời nào, chỉ giơ gậy lên, rung cây phất tử, hét lên một tiếng, hay ngâm một câu thơ, đó là những thứ mà môn hạ có thể nhận được từ thầy. Một số thiền sư có những phương pháp thù thắng độc đặc của riêng mình trong việc cử dương tông giáo. Thí dụ Lâm Tế lừng danh thiên hạ vì tiếng hét của sư. Đức Sơn chuyên dùng hèo. Câu Chi chỉ cần giơ một ngón tay. Hima chuyên dùng chĩa hai. Quan Sơn chuyên đánh trống. Thật kinh ngạc khi thấy vô số các phương tiện quyền môn được áp dụng một cách hết sức thần tình, độc đáo, và tất cả các cơ phong, ngôn hành ấy chỉ nhằm một mục đích giúp cho học tăng tiệt đoạn chúng lưu, liễu ngộ yếu chỉ vốn có vô số hình tưởng thiên sai vạn biệt trong thế gian, tùy căn cơ khế hội của từng cá nhân mà hiển bày tông phong siêu việt.

Nói tóm lại, thiền nhất định là một vấn đề trải nghiệm cá nhân, tự chứng tự tri, một loại chủ nghĩa duy nghiệm triệt để. Đọc sách thiên kinh vạn quyển, tìm thầy học đạo ngàn năm, ngồi thiền quán tưởng mấy kiếp, cũng không bao giờ có thể giúp một hành giả trực ngộ căn nguyên, chuyển hóa anh ta thành một thiền sư. Cuộc sống phải được nắm bắt ngay trong dòng chảy sục sôi của nó. Ngừng nó lại để xem xét, quán sát, phân tích, chúng ta đã giết chết nó, chỉ còn biết ôm ấp một thân ngà giá lạnh. Tất cả mọi sự biến trong thiền đường, mọi thanh quy giới luật chi li của nó, đã được sắp xếp sao cho ý tưởng cốt yếu này trở thành tâm điểm trong dòng tuệ mạng của thiền sinh. Vị thế độc đáo duy nhất của Thiền tông trong tất cả tông phái Phật giáo Đại thừa ở Nhật Bản và Trung Quốc trong toàn bộ lịch sử Phật giáo tại khu vực Viễn Đông chắc chắn dựng lập được là nhờ vai trò của thiền đường trong lộ trình tu tập của chúng tăng.

Ảnh nguồn internet

Bài viết liên quan