THIỀN SƯ BỔN TỊNH (? – 761) - Thiền Sư Trung Hoa Tập 1 – Soạn dịch H.T Thích Thanh Từ

THIỀN SƯ BỔN TỊNH (? – 761)

Thiền Sư Trung Hoa Tập 1 – Soạn dịch H.T Thích Thanh Từ

–––––o0o–––––

Đạo vốn không tu, Đại đức cưỡng tu, đạo vốn không tác, Đại đức cưỡng tác, đạo vốn không sự, Đại đức cưỡng sinh đa sự, đạo vốn không biết, ở trong ấy cưỡng biết. Thấy hiểu như thế cùng đạo trái nhau. Tôn túc từ xưa không như thế, tự Đại đức không hỏi, sinh suy ngẫm đó.
THIỀN SƯ BỔN TỊNH (? – 761) - Thiền Sư Trung Hoa Tập 1 – Soạn dịch H.T Thích Thanh Từ

Đệ Tử Đời Thứ Nhất Của Lục Tổ Huệ Năng

Sư họ Trương, quê ở Ráng Châu, xuất gia từ thuở bé. Sau Sư đến tham học với Lục Tổ Huệ Năng, được Tổ truyền tâm. Sư từ giã Tổ, tìm đến núi Tư Không ở chùa Vô Tướng, chuyên ở nơi đây tu hành.

Đời Đường niên hiệu Thiên Bảo năm thứ ba (744 T.L) vua Huyền Tông sai Trung sứ Dương Quang Đình vào núi cắt dây Thường Xuân. Dương Quang Đình tình cờ gặp được thất của Sư.

Đình lễ bái thưa:

- Đệ tử mộ đạo đã lâu, cúi xin Hòa Thượng từ bi tóm tắt chỉ dạy.

Sư bảo:

- Người nghiên học Thiền tông trong thiên hạ đều hội về kinh sư (kinh đô vua), Thiên sứ nên trở về triều thưa hỏi là đầy đủ. Bần đạo ở góc núi cạnh khe không có chỗ dụng tâm.

Quang Đình thiết tha khóc lóc lễ lạy:

Sư bảo:

- Thôi! Chớ lễ bần đạo. Thiên sứ vì cầu Phật hay vì hỏi đạo?

Đình thưa:

- Đệ tử trí thức tối tăm chưa biết Phật với Đạo nghĩa ấy thế nào?

Sư bảo:

- Nếu muốn cầu Phật, tức tâm là Phật. Nếu muốn hỏi Đạo, không tâm là Đạo.

- Thế nào tức tâm là Phật?

- Phật nhân tâm mà ngộ, tâm do Phật được bày. Nếu ngộ không tâm thì Phật cũng chẳng có.

- Thế nào không tâm là Đạo?

- Đạo vốn không tâm, không tâm gọi là Đạo. Nếu rõ không tâm thì không tâm tức là Đạo vậy.

Quang Đình đảnh lễ tin nhận.

Trở về triều, Quang Đình tâu hết việc cho vua nghe. Vua ban sắc lệnh sai Quang Đình đi thỉnh Sư. Ngày mười ba tháng chạp, Sư theo sứ về đến đế đô, vua thỉnh ở chùa Bạch Liên.

Đến ngày rằm tháng hai năm sau, vua mời hết những danh Tăng, và các người học Phật uyên bác đến nội đạo tràng (đạo tràng trong cung) cùng Sư Xiển dương Phật lý.

Khi ấy, có Thiền sư Viễn lên tiếng hỏi Sư:

- Nay đối Thánh thượng để xét lường tôn chỉ, cần phải hỏi thẳng, đáp thẳng, không cần dùng nhiều lời. Như chỗ thấy của Thiền sư lấy gì làm đạo?

Sư đáp:

- Không tâm là đạo

Viễn hỏi:

- Đạo nhân tâm mà có, đâu được nói không tâm là đạo?

Sư đáp:

- Đạo vốn không tên, nhân tâm có đạo. Tâm và tên nếu có thì đạo không rỗng suốt. Tột tâm đã không thì đạo nương đâu mà lập? Cả hai đều là giả danh.

Viễn hỏi:

- Thiền sư thấy thân tâm là đạo rồi chăng?

Sư đáp:

- Sơn Tăng thân tâm xưa nay là đạo.

Viễn hỏi:

- Vừa nói không tâm là đạo, giờ lại nói thân tâm xưa nay là đạo, đâu không trái nhau?

Sư đáp:

- Không tâm là đạo, tâm mất đạo không, tâm đạo nhất như nên nói không tâm là đạo. Thân tâm xưa nay là đạo, đạo cũng vốn là thân tâm, thân tâm vốn đã là không, đạo cũng tột nguồn chẳng có.

Viễn hỏi:

- Xem hình thể Thiền sư rất nhỏ đâu thể hội được lý này?

Sư đáp:

- Đại đức thì chỉ thấy tướng Sơn Tăng, chẳng thấy được không tướng của sơn Tăng. Thấy tướng là chỗ thấy của Đại đức. Kinh nói “Phàm có tướng đều là hư vọng, nếu thấy các tướng chẳng phải tướng, tức ngộ được đạo kia”. Nếu lấy tướng cho là thật thì cùng kiếp không thể ngộ đạo.

Viễn bảo:

- Nay thỉnh Thiền Sư ở trên tướng nói không tướng.

Sư đáp:

- Kinh Tịnh Danh nói: “Bốn đại không chủ, thân cũng không ngã, chỗ thấy không ngã, cùng đạo tương ưng”. Đại đức nếu cho tứ đại có chủ là ngã, nếu thấy có ngã thì cùng kiếp không thể hội đạo.

Viễn nghe nói thất sắc lặng lẽ rút lui.

Thiền sư Minh Chí hỏi:

- Nếu nói không tâm là đạo, ngói gạch không tâm cũng ưng là đạo? Thân tâm xưa nay là đạo, tứ sinh thập loại đều có thân tâm cũng ưng là đạo?

Sư đáp:

- Đại đức nếu hiểu bằng vào thấy nghe hiểu biết thì cùng đạo khác xa, tức là người cầu thấy nghe hiểu biết, không phải là người cầu đạo. Kinh nói: “Không, mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý…”. Sáu căn còn không, thấy nghe hiểu biết nương đâu mà lập. Cùng tột gốc nguồn chẳng có thì chổ nào còn tâm? Đâu không đồng với cỏ cây gạch ngói.

Minh Chí lặng thinh thoái lui.

Thiền sư Chơn hỏi:

- Đạo đã không tâm, Phật có tâm chăng? Phật cùng với đạo là một, là khác?

Sư đáp:

- Chẳng một, chẳng khác.

Chơn hỏi:

- Phật độ chúng sinh vì có tâm, đạo không độ chúng sinh vì không tâm. Một độ một không độ đâu được không khác?

Sư đáp:

- Nếu nói Phật độ chúng sinh, đạo không độ, đây là Đại đức vọng sinh thấy hai. Theo Sơn Tăng tức chẳng phải vậy. Phật là tên suông, đạo cũng dối lập, cả hai đều không thật, toàn là giả danh. Trong một cái giả sao lại phân làm hai?

Chơn hỏi:

- Phật với đạo đều là giả danh, chính khi lập danh nhân cái gì mà lập? Nếu có lập được, đâu thể nói là không?

Sư đáp:

- Phật với đạo nhân tâm mà lập, xét cùng cái tâm dựng lập, tâm ấy cũng không, tâm đã là không liền ngộ cả hai đều chẳng thật, biết như mộng huyễn liền ngộ vốn không. Gắng lập hai tên Phật, Đạo, đây là cái biết của người nhị thừa.

Thiền Sư Pháp Không hỏi:

- Phật với Đạo đều là giả danh, mười hai phần giáo (Tất cả kinh điển) cũng phải chẳng thật, vì sao các hàng tôn túc từ xưa đều nói có tu có đạo?

- Đại đức lầm hội ý Kinh; Đạo vốn không tu, Đại đức cưỡng tu, đạo vốn không tác, Đại đức cưỡng tác, đạo vốn không sự, Đại đức cưỡng sinh đa sự, đạo vốn không biết, ở trong ấy cưỡng biết. Thấy hiểu như thế cùng đạo trái nhau. Tôn túc từ xưa không như thế, tự Đại đức không hỏi, sinh suy ngẫm đó.

Thiền sư An hỏi:

- Đạo đã giả danh. Phật nói dối lập, mười hai phần giáo (tất cả kinh điển) cũng là phương tiện tiếp vật độ sinh, tất cả là vọng lấy gì làm chân?

Sư đáp:

- Vì có vọng nên đem chân đối vọng. Xét cùng tính vọng vốn không, chân cũng chưa từng có. Thế thì biết chân vọng đều là giả danh, hai việc đối trị trọn không thật thể, tột cội gốc nó thì tất cả đều không.

An hỏi:

- Đã nói tất cả là vọng, vọng cũng đồng chân, chân vọng không khác lại là vật gì?

Sư đáp:

- Nếu nói vật gì, vật gì cũng vọng. Kinh nói “Không tương tợ, không so sánh, bặt đường nói năng, như chim bay trong không”.

Thiền sư An thầm phục mà không biết mối manh.

Thiền sư Đạt Tánh hỏi:

- Thiền thật chí vi, chí diệu, chân vọng cả hai đều bặt, Phật, Đạo cả hai chẳng còn, tu hành tính là không, danh tướng chẳng thật, thế giới như huyễn, tất cả đều giả danh. Khi người đạt đến cái hiểu biết này cũng không thể đoạn dứt hai gốc thiện ác của chúng sinh!

Sư đáp:

- Hai gốc thiện ác đều nhân tâm mà có, tìm tột tâm nếu có thì gốc ắt thật, xét tâm đã không, thì gốc nhân đâu mà lập. Kinh nói: “Pháp thiện pháp ác từ tâm hóa sinh, nghiệp duyên thiện ác vốn không thật có”.

Vị quan cận thần hỏi:

- Thân này từ đâu mà đến? Sao khi trăm tuổi trở về đâu?

Sư đáp:

- Như người khi mộng từ đâu mà đến? Khi thức giấc lại đi về đâu?

Quan thưa:

- Khi mộng không thể nói không, đã thức không thể nói có. Tuy có mà không từ đâu đến, đi không đi về đâu.

Sư nói:

- Bần đạo thấy thân này cũng như mộng.

Niên hiệu Thượng Nguyên năm thứ hai (761 T.L) ngày mùng năm tháng năm Sư qui tịch.

Vua sắc ban hiệu là Đại Hiển Thiền Sư.

–––––o0o–––––

Nguồn: Thiền Sư Trung Hoa, Tập 1

Soạn dịch: HT. Thích Thanh Từ

NXB: Tôn Giáo, năm 2002

Ảnh: Internet

Bài viết liên quan