THU THẬP SINH LỰC CỦA TẤT CẢ CHƯ BỔN TÔN - TULKU URGYEN RINPOCHE - AS IT IS

THU THẬP SINH LỰC CỦA TẤT CẢ CHƯ BỔN TÔN

TULKU URGYEN RINPOCHE.

Trích từ nguyên tác AS IT IS (những bài pháp trong 2 năm cuối cùng 1994, 1995)

Nguyên Chân Lê Việt Dũng chuyển dịch Việt ngữ @ 2024.

-----o0o-----

Câu nói “Chứng ngộ một vị Phật và bạn chứng ngộ tất cả các vị Phật” có nghĩa là tất cả chư Phật đều là một trong không gian của tánh giác bản nguyên. Nó giống như sự mênh mông của không gian, sự bao la của bầu trời: chúng ta không thể nói rằng có một bầu trời cho một phần của thế giới và một bầu trời khác cho phần khác. Toàn bộ khoảng không này là cùng một không gian.
THU THẬP SINH LỰC CỦA TẤT CẢ CHƯ BỔN TÔN - TULKU URGYEN RINPOCHE - AS IT IS

Các truyền thống Phật giáo Tây Tạng khác nhau có cách nhìn nhận khác nhau về các thực hành của vị bổn tôn (yidam). Trong các truyền thống Tân Dịch, các truyền thống Sarma, đặc biệt là Sakya, người ta phải giữ mối liên hệ sống động với bổn tôn yidam thông qua việc trì tụng thần chú hàng ngày. Mặc dù mối liên hệ này đạt được thông qua quán đảnh, bạn phải duy trì nó bằng cách giữ thực hành samaya hàng ngày; nếu không, mối liên hệ sẽ biến mất.

Mặc dù không bao giờ nói rằng người nào bỏ thực hành hàng ngày sẽ phải xuống địa ngục, nhưng truyền thống Sakya nhấn mạnh vào việc thực hành hàng ngày để giữ mối liên hệ với vị bổn tôn yidam. Đó là lý do tại sao một số lạt ma Sakya có một cuốn sách dày về các thực hành hàng ngày. Điều này không giống với hệ thống Kagyü và Nyingma, hai hệ thống này nhấn mạnh vào việc 'cô đọng tất cả thành một'. Trong cách tiếp cận này, nếu bạn thực hành một vị bổn tôn, tất cả các vị khác sẽ tự động được bao hàm trong đó. Nếu bạn chứng ngộ một vị Phật, bạn sẽ tự động chứng ngộ tất cả các vị Phật khác cùng một lúc.

Câu nói “Chứng ngộ một vị Phật và bạn chứng ngộ tất cả các vị Phật” có nghĩa là tất cả chư Phật đều là một trong không gian của tánh giác bản nguyên. Nó giống như sự mênh mông của không gian, sự bao la của bầu trời: chúng ta không thể nói rằng có một bầu trời cho một phần của thế giới và một bầu trời khác cho phần khác. Toàn bộ khoảng không này là cùng một không gian. Tương tự như vậy, giống như không gian, tâm giác ngộ của tất cả chư Phật là giống hệt nhau, mặc dù chư vị có biểu hiện dưới nhiều hình tướng khác nhau. Tuy nhiên, tinh túy của những gì chư vị thực sự là thì không phải là các thực thể khác nhau.

Sự thực là tất cả chư Phật đều là một trong không gian của sự tỉnh giác bản nguyên, đây không phải là sự phát minh của tôi. Điều này được chính các vị Phật dạy. Nếu bạn có thể cảm thấy tin chắc vào điều đó, bạn cũng sẽ hiểu rằng tất cả các hình tướng khác nhau của chư Phật không giống như những người khác nhau mà bạn phải giữ liên lạc mật thiết. Không phải như thể có ba mươi người và bạn phải duy trì một tình bạn tốt đẹp với từng người trong số họ. Những bậc trí huệ như chư Phật không có bất kỳ tư tưởng nào, và chư vị không phân biệt xem ai đó có thích hay không thích mình. Chư vị không giống như những người bình thường. Tất cả các hình tướng của chư Phật đều có cùng một bản chất. Bằng cách thực hành một trong số họ, bạn tự động giữ được mối liên kết với tất cả các vị khác. Hãy cảm thấy xác quyết rằng điều đó là như thế.

Mặc dù tất cả chư Phật trong tinh túy đều giống nhau, nhưng chư vị lại thị hiện theo nhiều cách khác nhau. Về phương diện này, chúng ta cũng vậy; trong tinh túy, tất cả chúng ta đều có Phật tánh. Về phương diện Phật tánh của chúng ta, không có sự khác biệt giữa mọi người; điều cơ bản là, tất cả chúng ta đều là nhất thể với cái biết trống không. Nhưng chắc chắn có sự khác biệt giữa chúng ta về cách Phật tánh này biểu hiện chính nó dưới dạng những tư tưởng. Trong khi tôi vui, người khác có thể cảm thấy buồn; chúng ta không cảm thấy giống nhau. Tuy nhiên, trong tinh túy, chúng ta đều giống nhau.

Các vị bổn tôn không có những tư tưởng, chư vị không phân biệt đối xử, và về mặt bản chất, họ giống như một trường đơn nhất của không gian. Hãy tưởng tượng không gian bên trong mỗi căn phòng trong tất cả các ngôi nhà ở Nepal. Mặc dù những ngôi nhà này tách biệt với nhau, nhưng không gian trong tự thân nó không có sự khác biệt giữa các ngôi nhà. Về tinh túy nền tảng, tất cả các vị Phật đều đồng nhất. Do đó, nếu bạn chứng ngộ một vị Phật, bạn sẽ tự động chứng ngộ tất cả các vị khác.

Bất cứ khi nào bạn quán tưởng một vị bổn tôn trong giai đoạn phát triển, hãy hiểu rằng nền tảng của điều đó là giai đoạn thành tựu. Nếu bạn có thể quán tưởng sau khi nhận biết tinh túy tâm, thì chỉ cần để cho hình tướng của vị bổn tôn biểu lộ và diễn ra trong trạng thái đó. Khi đó, về cơ bản không có sự khác biệt giữa các vị bổn tôn mà bạn thực hành, bởi vì bạn chỉ đơn giản để cho hình tướng của bổn tôn được phô diễn trong khi bạn vẫn ở trong tinh túy tâm.

Nếu một người không thực hành như vậy - nếu một người thực hành với tư tưởng nhị nguyên thông thường - thì tất cả các vị bổn tôn chắc chắn là khác nhau: tư tưởng về một vị tự động loại trừ tư tưởng về một vị khác.

Khi nói đến việc chứng ngộ một bổn tôn nào đó, những điểm quan trọng nhất là: nhận ra Tánh Không, thực hành vì lòng bi mẫn đối với tất cả chúng sinh, vượt thoát khỏi hy vọng và sợ hãi. Nếu bạn thực hành theo cách đó, bạn chắc chắn sẽ chứng ngộ được vị bổn tôn; không có nghi ngờ gì về điều đó.

Nhưng nếu bạn thực hành vì một động cơ vật chất thế tục, rằng "Tôi ước mình có thể đạt được điều này điều kia", thì sự kỳ vọng này sẽ trì hoãn việc đạt được thành tựu. Bạn sẽ không bao giờ chứng ngộ được vị bổn tôn thông qua hy vọng và sợ hãi. Trước hết, hãy nhận biết bản tánh của tâm; tiếp theo, hãy phát triển lòng bi mẫn đối với tất cả chúng sinh; sau đó, hãy từ bỏ hy vọng và sợ hãi. Bằng cách tu tập theo cách này, bạn chắc chắn sẽ thành tựu được vị bổn tôn.

Bạn có thể bắt đầu quán tưởng một vị bổn tôn bằng cách nhìn vào một tấm thangka. Nó mang lại cho bạn một ấn tượng thị giác, một hình tướng hữu hình, nhưng vị bổn tôn thực sự không chính xác giống như vậy, bởi vì một tấm thangka là có thể chạm vào được; bạn có thể cầm nó trên tay mình. Còn hình tướng của vị bổn tôn mà bạn tưởng tượng là hữu hình, nhưng không thực có. Nó là trống không nhưng bạn vẫn có thể nhìn thấy nó. Nó giống như hình ảnh phản chiếu trong gương, bạn có thể nhìn thấy nó nhưng không thể nắm bắt được nó.

Có bốn trường phái chính của Phật giáo Tây Tạng: Kagyü, Sakya, Nyingma và Geluk. Trong cả bốn truyền thống này, khi chúng ta thực hành giai đoạn phát triển, chúng ta cần bắt đầu với samadhi (định) của chân như. Chân như có nghĩa là bản tánh bẩm sinh của tâm bạn. Nó không phải là một chân như nào khác từ một nơi nào đó. Chân như đó chỉ đơn giản là giai đoạn thành tựu.

Sự hoàn thiện trong giai đoạn thành tựu có nghĩa là cái gì hoàn toàn hiện diện như bản tánh của chính bạn, đó là bản tánh pháp thân của tâm. Nhận biết điều đó được gọi là giai đoạn thành tựu.

Trong khi nhận biết tinh túy tâm, trong khi duy trì trong samadhi của chân như, ta để cho những sự quán tưởng của giai đoạn phát triển diễn ra mà không rời bỏ khỏi trạng thái tự nhiên nền tảng. Từ không gian của ba thân, việc thực hành sadhana diễn ra vì lợi lạc của mọi chúng sinh. Cả luân hồi và niết bàn luôn biểu lộ ra từ không gian của ba thân.

Cái đầu tiên trong ba tam muội là samadhi của chân như, có nghĩa là tánh Không nguyên thủy. Trên thực tế, đó là tinh túy của các thân của tất cả chư Phật. Tinh túy trống không là phẩm tính của thân giác ngộ. Bản tánh rõ biết là phẩm tính của ngữ giác ngộ. Năng lực vô hạn của tánh giác là phẩm tính của tâm giác ngộ.

Thân, ngữ và tâm của tất cả chư Phật cũng được diễn đạt như sau: phẩm tính bất biến là thân, phẩm tính không ngừng dứt là ngữ, và phẩm tính không sai lầm là tâm. Trong trạng thái bị mê lầm của hiện hữu, sự biểu lộ của ba phẩm tính này trở thành thân, ngữ và tâm của các chúng sinh.

Do đó, trong ba phẩm tính này, bạn có cả luân hồi và niết bàn; thân, ngữ và tâm của tất cả chư Phật; và thân, ngữ, tâm của mọi chúng sinh. Theo cách này, bản tánh của ba thân thấm nhuần cả luân hồi và niết bàn.

Nghe có vẻ như thể có ba thứ riêng biệt, một là pháp thân, một là báo thân và thứ ba là hóa thân; nhưng thực ra đó chỉ là một bản thể bất khả phân. Đó chính là thân tinh túy, tự tánh thân; cái mà không là gì khác hơn bản tánh của chính tâm bạn. Bản thể này thấm nhuần khắp hay là hiện diện trong tất cả các trạng thái của luân hồi và niết bàn.

Thân, ngữ và tâm của tất cả chúng sinh không gì khác hơn là sự biểu hiện hay sự biểu lộ của thân, ngữ và tâm của tất cả chư Phật. Chúng không đến từ bất kỳ nơi nào khác. Nếu chúng ta nhận biết trọn vẹn bản thể này, chúng ta sẽ trở nên hoàn toàn ổn định vững chắc.

Điều đó được gọi là 'tỉnh thức với sự giác ngộ của thân, ngữ và tâm của tất cả chư Phật'. Nhưng nếu chúng ta không nhận biết bản tánh của chính mình, chúng ta sẽ bị bối rối và tiếp tục lang thang trong sinh tử luân hồi, giống như chúng ta đang làm hiện giờ.

Hãy lặp lại tantra: "Tất cả chúng sinh đều là chư Phật, nhưng họ bị bao phủ bởi những che chướng tạm thời. Khi những che chướng này được loại bỏ, họ thực sự là những vị Phật giác ngộ". Mặc dù bản chất của tất cả chư Phật và chúng sinh là như nhau, nhưng khi chúng ta không nhận biết điều đó, chúng ta sẽ tiếp tục ở trong luân hồi. Đó là một trường hợp của 'một bản thể với hai phương diện'.

Chúng ta có thể giác ngộ và có khả năng đạt được quả vị Phật bởi vì chúng ta đã có tinh túy của giác ngộ là Phật tánh. Nếu không có điều đó, không có cách nào mà chúng ta có thể đạt được bất kỳ sự giác ngộ nào.

Trong giai đoạn thành tựu và giai đoạn phát triển, giai đoạn thành tựu là quan trọng nhất. Nó giống như sinh lực trong cái mà chúng ta đã sở hữu: ba thân bẩm sinh là bản tánh của tâm chúng ta. Giai đoạn thành tựu là ba thân của trạng thái tỉnh thức. Trong khi chúng ta đã có những thứ này và không cần phải nỗ lực để tạo ra chúng, nhưng chúng ta có thể phát triển phẩm tính biểu lộ của chúng. Giai đoạn phát triển là những gì chúng ta tưởng tượng ra, những gì chúng ta cho phép phô diễn ra trong cõi tâm của mình.

Có tâm và có tinh túy tâm. Tâm thì khác với tinh túy. Những suy nghĩ và tưởng tượng là tâm nhị nguyên, còn trong tinh túy không có gì được nghĩ đến hoặc được tưởng tượng ra. Ba thân hiện diện tự nhiên trong tinh túy, và theo một cách nào đó, chúng biểu lộ trong hình tướng thông qua hành động quán tưởng.

Chúng ta làm như vậy để đạt được những thành tựu và tịnh hóa những che chướng. Cách quan trọng nhất để làm điều này là để cho tất cả các phương diện khác nhau của giai đoạn phát triển diễn ra trong khi nhận biết tinh túy của tâm. Đó là cách tốt nhất, hạng nhất.

Tuy nhiên, ngay cả khi người ta không biết bản tánh của tâm và thực hành giai đoạn phát triển, thì sự phát triển và sự thành tựu vẫn là một thể thống nhất, bởi vì tinh túy tâm là một cái biết trống không vô biên. Điều cốt yếu là phải hiểu các nguyên lý cơ bản của thực hành bổn tôn yidam liên quan đến những điểm vừa được chỉ ra này.

Để biểu lộ ra bên ngoài những phẩm tính của ba thân - thân, ngữ và tâm của bổn tôn yidam - chúng ta trải qua nhiều bước khác nhau trong quá trình thực hành nghi thức sadhana: chúng ta làm những cúng dường, trì tụng thần chú, tưởng tượng các tia sáng được chiếu tỏa ra và hấp thụ trở lại, xưng tán và sám hối, thỉnh chuyển bánh xe Pháp, cầu thỉnh chư Phật đừng nhập niết bàn và hồi hướng công đức.

Tất cả các bước này là những cách khác nhau để loại bỏ những đám mây che phủ trên bầu trời. Cùng với nhau, chúng tạo nên những gì theo truyền thống được gọi là tịnh hóa các che chướng, sự tích lũy hai tư lương là công đức và trí tuệ. Chúng là phương tiện thiện xảo và sự từ bi của chư Phật, và là sự biểu hiện của trí huệ; chúng vô cùng hiệu quả. Đừng bao giờ coi giai đoạn phát triển là vô nghĩa hoặc không quan trọng.

Điểm quan trọng nhất trong giai đoạn phát triển được mô tả là 'thu thập sinh lực của tất cả chư Phật'. Nói cách khác, nếu bạn chứng ngộ giai đoạn thành tựu thì không có cách nào bạn có thể tránh khỏi việc chứng ngộ tất cả chư Phật và chư bổn tôn. Nếu không có giai đoạn thành tựu, tất cả chư Phật và bổn tôn chỉ là điều gì đó mà chúng ta tưởng tượng ra. Khi bạn nhận biết rõ ràng rằng tinh túy tâm là siêu việt sự tạo tác, thì vị bổn tôn tự động được thành tựu.

Thực sự, không có kỹ thuật sâu xa nào khác hơn điều này để chứng ngộ được vị bổn tôn.

Mục đích cuối cùng của việc thực hành bổn tôn là nhận biết bản tánh của ba thân là bất khả phân với tâm của chính bạn. Các phương diện có thể thấy được, điều mà có thể biểu lộ, được tự động thành tựu trong sự nhận biết về tinh túy tâm của chúng ta. Mặc dù chúng được biểu lộ ra bên ngoài, nhưng bên trong, chúng ta không tạo tác ra bất cứ thứ gì cả.

Giai đoạn thành tựu giống như có một bóng đèn điện ở giữa trái tim của bạn, trong khi giai đoạn phát triển giống như vẽ một hình ảnh bóng đèn trên bức tường. Ánh sáng được vẽ không bao giờ thực sự có thể được bật lên, nhưng sẽ nhắc nhở bạn rằng thực sự có một ánh sáng thật, và do đó bạn có thể nhận biết nó dễ dàng hơn. Đây là sự khác biệt giữa hai giai đoạn.

Chúng ta cần cả hai giai đoạn phát triển và thành tựu. Trong khi chúng ta vẫn chưa ổn định vững chắc trong samadhi, nhưng trong giai đoạn thành tựu, các phương diện có thể thấy được của giai đoạn phát triển giúp chúng ta tịnh hóa các che chướng, đồng thời tích lũy công đức và trí tuệ. Điều này có một ý nghĩa to lớn và sâu sắc ở chỗ chúng giúp loại bỏ các chướng ngại. Đừng bao giờ nghĩ rằng giai đoạn phát triển là không cần thiết. Cụm từ 'nhận ra vị bổn tôn cần được thành tựu' thường được nhắc đến. Nghĩa là chúng ta phải nhận ra rằng vị bổn tôn tối thượng thực ra chính là giai đoạn thành tựu, là bản tánh của tâm chúng ta. Đó là điều chúng ta phải ghi nhận như là vị bổn tôn cần được thành tựu.

Chư Phật không bao giờ dạy rằng chúng ta có thể đạt được giác ngộ chỉ thông qua giai đoạn phát triển. Người ta đạt được giác ngộ bởi sự thống nhất của giai đoạn phát triển và thành tựu. Nhưng thực ra, sức mạnh thực sự quan trọng trong việc đạt được giác ngộ là giai đoạn thành tựu. Ta có khả năng đạt được giác ngộ chỉ thông qua giai đoạn thành tựu, nhưng không thể đạt được điều đó nếu chỉ thông qua giai đoạn phát triển. Tuy nhiên, cách nhanh nhất để đạt được giác ngộ là bằng cách thống nhất phương tiện và trí huệ.

Phương tiện là giai đoạn phát triển và trí huệ là giai đoạn thành tựu. Bạn có thể có trí huệ dưới dạng của một người có thể lắp ráp toàn bộ một chiếc máy bay, nhưng nếu bạn không có những phương tiện, tức là tất cả các bộ phận, bạn có thể giữ người đó bao lâu tùy thích, nhưng bạn sẽ không bao giờ có một chiếc máy bay. Ngược lại, bạn có thể có mọi bộ phận của một chiếc máy bay, tất cả các phương tiện, nhưng nếu không có bí quyết của một người có thể lắp ráp chúng, thì không có cách nào những bộ phận rời rạc đó sẽ có thể tự bay được. Chỉ khi bạn kết hợp được trí huệ với phương tiện cùng nhau thì mới có khả năng để có một chiếc máy bay có thể thực sự bay.

Nguyên nhân tại sao Mật chú, Kim Cương thừa, được cho là một con đường nhanh chóng đến giác ngộ chỉ đơn giản là vì sự thống nhất giữa phương tiện và trí huệ, thống nhất giữa giai đoạn phát triển và giai đoạn thành tựu. Thực hành Kim Cương thừa bao gồm việc kết hợp quán tưởng về một vị bổn tôn cùng với sự nhận biết tinh túy tâm; đó là lý do tại sao nó là một con đường nhanh chóng.

Đây là một ví dụ khác về 'chứng ngộ một vị bổn tôn, bạn sẽ chứng ngộ tất cả các vị khác'. Giả sử bạn có một nghìn bóng đèn điện. Bạn đấu dây chúng, nhưng bạn chưa bật công tắc điện. Làm sao mà một nghìn bóng đèn đó sẽ có thể chiếu sáng bất cứ thứ gì? Nhưng nếu bạn bật công tắc điện, một nghìn bóng đèn sẽ sáng cùng một lúc.

Mặc dù chúng là riêng lẻ và khác biệt, nhưng ánh sáng chiếu qua chúng là như nhau về bản chất. Trong tinh túy, đó là cùng một ánh sáng. Bất kể bạn có đèn điện ở đâu trên thế giới, ánh sáng đó đều chiếu sáng và chiếu sáng theo chính xác cùng một cách, mặc dù nó có thể thay đổi tùy theo tình trạng của bóng đèn. Sức mạnh chính, giống như điện thắp sáng bóng đèn, là cái mà chúng ta gọi là tánh giác bản nguyên, và đó là điều quan trọng nhất. Nếu bạn nhận ra điều đó, bạn sẽ nhận ra ánh sáng trong mọi bóng đèn riêng lẻ, không chỉ là một trong số chúng.

Hoặc có thể các bóng đèn có nhiều màu khác nhau, vì vậy khi ánh sáng chiếu qua chúng, một bóng đèn có màu vàng, những bóng đèn khác có màu xanh lam, xanh lục hoặc đỏ. Đây là một ví dụ về ánh sáng của năm trí tuệ. Trong khi những màu sắc hoặc phẩm tính cụ thể của mỗi sự phát sáng có thể khác nhau, ánh sáng chiếu qua chúng là cùng một tánh giác bản nguyên. Hãy hiểu điều này.

Nếu không như vậy, chúng ta sẽ có thể sẽ rơi vào việc tranh luận xem giai đoạn phát triển hay thành tựu là tốt nhất. Nó sẽ giống như giai đoạn phát triển và giai đoạn thành tựu đang trong một trận đấu vậy. Hãy hiểu rằng phương tiện là giai đoạn phát triển và trí huệ là giai đoạn thành tựu, và cả hai đều quan trọng. Sự kết hợp thống nhất của hai điều này là quan trọng nhất.

Đừng nghĩ rằng không thực sự có vị bổn tôn nào; rằng chư vị không là gì khác ngoài trí tưởng tượng của chúng ta. Có những vị bổn tôn vốn có nội tại trong Phật Tánh của chúng ta, đó là những vị bổn tôn trí tuệ. Tương tự như vậy, bất kể bóng đèn có màu gì, dù là xanh, đỏ, trắng hay xanh lá cây, thì ánh sáng đều có cùng một bản chất. Bạn có thể có mười nghìn hay một trăm nghìn bóng đèn, nhưng nếu không có điện để chiếu qua chúng, chúng sẽ vô dụng. Tương tự như vậy, chúng ta cần giai đoạn thành tựu cùng với giai đoạn phát triển.

Bạn có thể thành công trong việc quán tưởng ra mười nghìn hay thậm chí một trăm nghìn vị bổn tôn khác nhau một cách sáng tỏ và rõ ràng như thể các vị đang hiện diện ngoài đời; nhưng việc thực hành của bạn vẫn cần kết hợp với giai đoạn thành tựu. Nếu không, thì nó cũng giống như có tất cả các bộ phận của một chiếc máy bay nhưng lại không biết làm thế nào để lắp ráp chúng lại với nhau.

Nếu không biết được tinh túy tâm, người ta buộc phải thực hành Kim Cương thừa như một sự mô phỏng của cách thức mà nó thực sự là. Đó là một giai đoạn phát triển hạng hai. Trước tiên, người ta cần phải tụng một câu thần chú, chẳng hạn như OM SVABHAVA SHUDDHO SARVA DHARMA SVABHAVA SHUDDHOH và tưởng tượng rằng mọi thứ trở thành tánh Không. Từ trạng thái của tánh Không được tạo tác này, các chủng tự của không gian, gió, đất, nước, lửa và cung điện cõi trời dần xuất hiện, tiếp theo là vị bổn tôn, v.v.. Tất cả những điều này đều là những gì người ta tưởng tượng. Thành thật mà nói, khi nói rằng câu thần chú khiến mọi thứ trở thành tánh Không thực sự không đúng, bởi vì mọi thứ vốn đã là tánh Không.

Không phải là chúng đột nhiên trở thành tánh Không bởi vì bạn nghĩ vậy. Nếu một người chưa nhận biết tinh túy tâm, người đó sẽ không thấy điều đó. Việc suy nghĩ về một điều này sau một điều khác, thì điều đó trở thành một sự mô phỏng của giai đoạn phát triển thật sự, vì người ta không thực sự hiểu về giai đoạn thành tựu.

Mặt khác, bạn có thể đã được giới thiệu vào bản tánh của tâm và nhận biết định của chân như. Chân như có nghĩa là nó thực sự là như vậy, không đơn thuần chỉ là cách mà người ta tưởng tượng nó là như vậy. Trong khi không rời khỏi trạng thái như thị này - trong khi nhận biết tinh túy tâm - sau đó người ta có thể để cho các phương diện khác nhau của giai đoạn phát triển được hiển bày hoặc phô diễn, mà không rời bỏ khỏi trạng thái của chân như. Đó là sự thống nhất thực sự của sự phát triển và thành tựu. Có một con đường thật sự và một con đường mô phỏng, và nếu không nhận biết được tinh túy tâm thì không có cơ hội nào để người ta có thể thực hành con đường thật sự.

Con đường thật sự của thực hành - sự thống nhất của giai đoạn phát triển và thành tựu - có nghĩa là bạn đã được giới thiệu vào thị kiến của Trekchö, chặt đứt, samadhi thực sự của chân như. Giống như ví dụ tôi đã đưa ra về một tấm gương trong suốt. Bất cứ thứ gì cũng có thể được phản chiếu, và khi được phản chiếu, sự phản chiếu không có bất kỳ thực chất hay chất thể nào. Tuy nhiên, nó vẫn có thể được nhìn thấy rõ ràng.

Samadhi (định) hạt giống, samadhi thứ ba trong ba samadhi, giống như xuất hiện sự phản chiếu, trong khi sự sáng tỏ và bản thân tấm gương giống như hai samadhi đầu tiên, đó là tánh Không và sự rõ biết. Samadhi của chân như là tánh Không và samadhi của sự chiếu sáng là sự rõ biết hoặc phẩm tính sáng.

Hai điều này là bất khả phân, và từ sự thống nhất không thể chia cắt này của tánh Không và sự rõ biết, còn được gọi là tánh Không và lòng từ bi, thì bất kỳ sự phản chiếu nào cũng có thể diễn ra; bất kỳ hình tướng nào của giai đoạn phát triển cũng có thể được diễn ra một cách tự do. Bất cứ điều gì diễn ra như giai đoạn phát triển bất khả phân với giai đoạn thành tựu thì đều được trải nghiệm, nhưng nó không có tánh vật chất. Điều này là nhờ sự nhận biết giai đoạn thành tựu mà có được. Nếu không có điều đó, giai đoạn phát triển giống như công trình xây dựng đang diễn ra bên ngoài căn phòng của tôi. Nó trở thành công việc thi công tạo tác, nghĩa là có thứ gì đó hữu hình, nhưng cũng hiện hữu và thật có.

Giả sử bạn đã thọ nhận tất cả các quán đảnh Rinchen Terdzo, Kho Tàng Quý Báu, một chuỗi những giáo lý với rất nhiều vị bổn tôn. Phải mất bốn tháng để nhận được tất cả các quán đảnh. Nếu phong cách thực hành của bạn theo trường phái Tân Dịch, bạn sẽ có một tập lớn các bài thực hành hàng ngày, tất cả đều phải tụng niệm. Bạn sẽ phải tụng niệm liên tục từ sáng đến tối để hoàn thành các bài thực hành này và tụng các thần chú. Cuối cùng, bạn sẽ nghĩ, "Ồ, hôm nay tôi đã làm được, tôi đã vượt qua được điều này; tôi vẫn còn mối nối kết thiêng liêng với tất cả các vị bổn tôn, các vị không rời bỏ tôi." Sau đó có lẽ một ngày nào đó bạn quên một trong số các vị hoặc bạn không thể thực hành. Bạn nghĩ, "Ồ không! Bây giờ tôi đã phá vỡ mối nối kết thiêng liêng với bổn tôn yidam này, tôi đã phá vỡ samaya của mình, và chắc chắn tôi sẽ xuống địa ngục." Khi đó, bạn thực sự gặp rắc rối. Rắc rối xảy ra vì có rất nhiều hình tướng của chư bổn tôn khác nhau khiến việc giữ mối nối kết với từng vị trở nên rất khó khăn.

Bạn cũng có thể áp dụng cách tiếp cận rằng mọi bổn tôn, mọi vị Phật đều đồng nhất và có cùng bản chất trong không gian của tánh giác bản nguyên. Sau đó, bạn có thể giữ mối nối kết với tất cả chư vị một cách rất đơn giản, ví dụ, bằng cách tụng ba chủng tự đại diện cho thân, ngữ và tâm của tất cả chư Phật: Om, Ah, Hung.

Om là tinh túy của Vairochana, Biểu hiện của Sắc tướng, thân giác ngộ của tất cả chư Phật. Ah là tinh túy của Amitabha, Vô Lượng Quang, là ngữ của tất cả chư Phật. Hung là tinh túy của Akshobhya, tính Bất Động, là bản tánh của tâm thoát khỏi suy nghĩ khái niệm.

Chủng tự Hung là tinh túy của tâm của tất cả chư Phật. Trên thực tế, sẽ hoàn toàn tốt khi tụng Om, Ah, Hung … Om, Ah, Hung, trong khi nhận biết tinh túy tâm. Nhờ đó, bạn đang giữ samaya (giới nguyện) với mọi phương diện có thể có của các vị bổn tôn và chư Phật, bởi vì tất cả chư vị đều được bao gồm trong thân, ngữ và tâm giác ngộ.

Bây giờ hãy nghĩ tới tất cả những giáo lý của chư Phật. Trong thế giới này, Tripitaka (Tam tạng), Kangyur và Lời của Đức Phật, cùng các luận thuyết là những bình giảng về chúng—đầy rẫy hàng trăm tập sách với những chi tiết đáng kinh ngạc. Rồi còn tất cả các tantra (mật điển). Tuy nhiên, tinh túy của tất cả những giáo lý này là giai đoạn phát triển và thành tựu.

Khi tìm kiếm sự hiểu biết hoàn hảo, bạn có thể đi sâu vào những chi tiết tuyệt vời, nhưng khi áp dụng sự hiểu biết này vào trải nghiệm của mình, bạn nên cô đọng mọi thứ và đơn giản hóa nó. Nói cách khác, ba chủng tự này: Om, Ah, Hung; chúng chứa đựng thân, ngữ và tâm của tất cả chư Phật, tất cả những giáo lý và tất cả các samadhi (tam muội).

Tương tự như vậy, thân, ngữ và tâm của các bậc chiến thắng được chứa đựng trong một khoảnh khắc nhận biết tinh túy tâm. Om là tinh túy của Vairochana, có nghĩa là 'biểu hiện trong sắc tướng'. Sắc tướng của vị bổn tôn là một cái gì đó hữu hình, một cái gì đó biểu hiện trong hình tướng. Ví dụ, trong trạng thái bardo (trung ấm), chúng ta gặp những âm thanh, màu sắc và ánh sáng, các quả cầu ánh sáng lớn và nhỏ, các vị bổn tôn hiền hòa và phẫn nộ, v.v..

Mọi thứ chúng ta gặp ở đây đều là một cái gì đó có thể nhận thấy được, biểu hiện trong hình tướng, và đó là phương diện thân của tất cả chư Phật. Tiếp theo là Ah cho ngữ. Ngữ là Amitabha, vô lượng quang, là tất cả các giáo lý vô biên vô tận đều chứa đựng trong một chủng tự.

Hung cho tâm là Akshobhya, có nghĩa là không bị nhiễu loạn hoặc không thể lay chuyển - trạng thái của tánh giác bất nhị, thoát khỏi mọi suy nghĩ khái niệm. Theo cách này, ba chủng tự Om, Ah, Hung, thể hiện hoặc bao gồm thân, ngữ và tâm của bất kỳ hình tướng nào của chư Phật, theo bất kỳ cách nào. Bạn có thể đi sâu vào tất cả những chi tiết tuyệt vời này khi cố gắng để hiểu biết, nhưng khi áp dụng nó vào kinh nghiệm của riêng bạn, hãy cô đọng mọi thứ thành những điều cốt tủy.

Tinh túy của thân, ngữ và tâm của tất cả chư Phật được gọi là bổn tôn, thần chú và định. Con đường để cô đọng điều đó vào tinh túy cốt tủy là: bổn tôn là điều mà bạn quán tưởng, chứ không phải là cái gì mà bạn tự tạo tác ra. Đó không phải là một công trình lớn, mà đó là sự hồi tưởng rằng “Ta là bổn tôn như thế này, như thế kia”. Vào thời điểm đó, bạn tưởng tượng bản thân mình là một bổn tôn nào đó, vì vậy điều đó rất đơn giản. Với ngữ của bạn, tức là thần chú, hãy trì tụng Om, Ah, Hung. Với tâm của bạn, tức là phương diện định (samadhi), hãy nhận biết tinh túy tâm. Mọi thứ đều bao gồm trong cách tiếp cận đơn giản này.

Trừ khi chúng ta tu tập ba nguyên lý của bổn tôn, thần chú và định; là những chúng sinh, tâm chúng ta luôn bị cuốn đi bởi ba hoặc năm độc. Ví dụ, hãy nhìn vào chiếc cốc này. Bạn nghĩ đây là một chiếc cốc đẹp—thì đó là tham muốn. Khi bạn nhìn vào chiếc khăn tay đã qua sử dụng này, bạn không thích nó. Đó là sự sân giận hoặc ác cảm. Chiếc tăm chưa sử dụng này không tốt cũng không xấu, đúng không? Khi bạn nhìn vào đó, bạn không cảm thấy bị thu hút bởi nó, bạn cũng không sân giận với nó, bạn chỉ cảm thấy trung lập.

Bất kỳ tư tưởng nào mà chúng ta nghĩ tới thì đều giống với một trong ba điều đó. Không có trạng thái của tâm nhị nguyên nào không bị trộn lẫn với ba độc. Khi chúng ta nhìn thấy một cái gì đó đẹp, chúng ta thích nó. Nếu chúng ta nhìn thấy một cái gì đó xấu xí, chúng ta không thích nó. Một cái gì đó trung lập, chúng ta cảm thấy thờ ơ, đúng không? Ngoài ra, khi chúng ta nghe thấy một điều gì đó hay, khi chúng ta ngửi thấy một mùi gì đó ngọt ngào, khi chúng ta nếm một món ăn ngon, chúng ta thích nó. Nếu nó có vị khó chịu, chúng ta không thích nó. Tất cả chúng ta đều có ba độc. Khi một điều gì đó dễ chịu xuất hiện trong tâm chúng ta, chúng ta thích nó; nếu nó là đau đớn, chúng ta không thích nó. Chúng ta có vui sướng và đau đớn, đúng không? Nhưng bất cứ điều gì ở giữa hai điều đó, chúng ta không quan tâm nhiều, chúng ta gạt bỏ nó. Bất cứ điều gì xuất hiện với sáu giác quan của chúng ta, chúng ta luôn phản ứng lại với ba độc.

Giai đoạn phát triển chỉ đơn giản là thay đổi khuôn mẫu này thành những tư tưởng trắng, bằng cách tưởng tượng cung điện cõi trời, hình tướng của vị bổn tôn, các lễ vật cúng dường... Khi chúng ta tưởng tượng núi Tu Di sau năm chủng tự, cung điện cõi trời trên đỉnh chày kim cương, vị bổn tôn và các lễ vật cúng dường, tất cả những điều này tịnh hóa suy nghĩ theo thói quen của chúng ta.

Chúng ta tụng lời cầu nguyện, và các vị bổn tôn trí tuệ xuất hiện trên bầu trời và hòa tan vào chính chúng ta. “Chính bản thân tôi cũng là một vị bổn tôn; tôi phóng tỏa ra những tia sáng hóa thành các thiên nữ cúng dường, những người quay lại và dâng vô số lễ vật và lời tán tụng cho chính tôi như một vị bổn tôn”. Tất cả những điều này là do chúng ta tưởng tượng ra, và nó thay đổi khuôn mẫu tư tưởng của chúng ta thành những tư tưởng trắng. Đó là về vị bổn tôn, đối với phương diện của thân.

Tiếp theo, chúng ta tưởng tượng ba sattva: samaya sattva, jnana sattva, samadhi sattva; đó là ba hữu thể được gọi là giới, huệ và định. Hữu thể samadhi (định) là một chủng tự hạt giống ở giữa trái tim chúng ta được bao quanh bởi vòng hoa của thần chú, nó quay tròn và chiếu tỏa những tia sáng. Có rất nhiều hoạt động và chức năng khác nhau liên quan đến việc trì tụng thần chú thuộc về phương diện của ngữ. Khi nói đến phương diện samadhi hoặc tâm, bạn chỉ cần nhận biết cái gì đang tưởng tượng ra tất cả những điều này. Kinh nghiệm trạng thái của sự rõ biết và trống không bất khả phân.

Các giai đoạn phát triển và thành tựu được chư Phật truyền dạy bằng phương tiện thiện xảo và lòng từ bi vĩ đại. Những giáo lý này vô cùng quý giá và hiệu quả. Toàn bộ mục đích của giai đoạn phát triển trước tiên là chuyển hóa những tư tưởng đen thành những tư tưởng trắng. Mục đích của giai đoạn thành tựu là để cho những tư tưởng trắng tan biến không để lại dấu vết. Khi bạn nhận biết tinh túy tâm và thấy trạng thái của sự rõ biết và trống không bất khả phân, điều đó làm tan biến ngay cả những tư tưởng trắng nhất, để không dấu vết nào còn sót lại.

Đôi khi mọi người nói, "Tôi muốn có một thị kiến về vị bổn tôn". Họ mong đợi rằng sau khi trì tụng một số lượng thần chú nhất định, vị bổn tôn sẽ đến trước mặt họ và họ sẽ thấy ngài. Thực sự thì, thái độ đó thể hiện cách hiểu về vị bổn tôn ở bên ngoài. Vị bổn tôn thực sự là sự hợp nhất của tánh Không và sự rõ biết: bản tánh của chính tâm bạn. Thay vì rung chuông và đánh trống, mong đợi vị bổn tôn xuất hiện trên bầu trời trước mặt bạn, bạn chỉ cần nhận biết được cái gì đang tưởng tượng ra tất cả những điều này. Vào thời điểm bạn thấy trạng thái mà trong đó tánh Không và sự rõ biết là không thể chia cắt. Đó chính là đối diện với vị bổn tôn thực sự. Điều đó không dễ hơn nhiều so với việc hy vọng một vị bổn tôn sẽ xuất hiện từ bên ngoài sao? Thị kiến thực sự về vị bổn tôn là nhận biết được bản tánh của tâm bạn.

Ngay cả khi bạn tìm kiếm một tỷ năm trong bản tánh của tâm mình, bạn sẽ không bao giờ thấy rằng nó là bất kỳ 'vật' cụ thể nào khác ngoài sự trống không. Đó là bổn tôn pháp thân, và khi bạn nhìn thẳng vào tâm, bạn sẽ thấy điều đó. Bất kể bạn điều tra, phân tích và quán xét kỹ lưỡng bản tánh của tâm này như thế nào, bạn sẽ không bao giờ thấy nó có bất kỳ loại chất thể, hay vật chất nào. Đó là lý do tại sao nó được gọi là tánh Không không do tạo dựng. Nhận biết được điều này là đối mặt với hay là có thị kiến về vị Phật pháp thân. Cái gì thấy rằng tâm là trống không? Có một phẩm tính rõ biết và tỉnh giác có thể thấy rằng tâm là trống không. Điều này không giống như không gian, không gian thì không thể thấy chính nó. Mặt khác, tâm vừa rõ biết, lại vừa trống không. Phẩm tính trống không là pháp thân, phẩm tính rõ biết là báo thân, và sự hợp nhất của chúng là hóa thân.

Đây là con đường dễ nhất để có một thị kiến về vị bổn tôn, cũng như là con đường thực sự. Con đường thiển cận là mong đợi một vị bổn tôn xuất hiện như thể đến từ bên ngoài sau khi rung chuông và đánh trống. Tuy nhiên, thực sự thì, con đường dễ nhất là có một thị kiến về vị bổn tôn như là giai đoạn thành tựu. Đó cũng là con đường chân chính. Nếu bạn chỉ thực hành giai đoạn phát triển bằng cách cảm thấy, "Tôi mong ước vị bổn tôn sẽ đến, tôi mong ước vị bổn tôn sẽ đến", đó là sự tu tập trong hy vọng và sợ hãi. Nó chỉ đẩy vị bổn tôn thật sự đi ra xa hơn mà thôi.

Việc nhận biết tinh túy tâm giúp thu thập được sinh lực của hàng ngàn vị Phật. Khi bạn nắm lấy được sinh lực, chư vị không thể vuột mất khỏi bạn. Thông qua sức mạnh của trạng thái samadhi chân chính, bạn thu thập được sinh lực của tất cả các vị bổn tôn mà không cần phải triệu hồi họ lên như thể họ đang ở đâu đó phía xa.

Cũng có một con đường khác, trong đó người ta cố gắng làm hài lòng vị bổn tôn theo một cách cứng nhắc, nghĩ rằng vị bổn tôn thực sự tồn tại ở đâu đó trên cao. Kiểu thái độ này cho rằng, "Tôi phải dâng lễ vật cúng dường, nếu không ngài sẽ nổi giận. Nếu tôi dâng lễ vật đẹp, ngài sẽ vui lòng. Nếu tôi tụng thần chú, tôi làm ngài vừa lòng, và nếu tôi quên, ngài sẽ buồn phiền. Nếu tôi phá vỡ mối liên hệ với ngài, điều đó sẽ khiến ngài cảm thấy rất tệ". Thái độ đó cũng được gọi là tu tập trong hy vọng và sợ hãi, và đó không phải là con đường chân chính.

Thực hành theo cách này đơn giản hơn nhiều: trước tiên, hãy nhắc nhở bản thân với suy nghĩ về việc ta là vị bổn tôn , ví dụ, "Tôi là Vajra Kilaya". Sau đó, trì tụng thần chú: Om Benza Kili Kilaya; hoặc đơn giản chỉ là Om, Ah, Hung. Tiếp theo, hãy nhận biết cái đang tưởng tượng ra vị bổn tôn và cái đang tụng thần chú không gì khác hơn là tâm của chính bạn.

Nếu không có tâm này, sẽ không có quán tưởng nào về hình tướng của vị bổn tôn. Nếu không có tâm, sẽ không có việc trì tụng thần chú. Khi bạn nhìn vào cái gì đang tưởng tượng hoặc tụng niệm, nhận biết tâm của chính mình, bạn thấy rằng đó là một sự rõ biết-trống không bất khả phân, và không theo một con đường vòng nào. Ví dụ, nếu bạn muốn chạm vào không gian bằng ngón tay của mình, bạn cần di chuyển ngón tay của mình xa đến mức nào để chạm vào không gian? Không phải nó chạm vào không gian ngay khi bạn duỗi ngón tay ra sao? Tương tự như vậy, ngay khi bạn nhận biết, bạn liền tiếp xúc với giai đoạn thành tựu - bản tánh trống không và rõ biết của tâm. Nó được nhận ra ngay lập tức. Do đó, trong khi thấy bản tánh của tâm, bạn có thể tiếp tục tụng chú.

Khi bắt đầu thời khóa thực hành của bạn, đừng quên tưởng tượng hình tướng của vị bổn tôn. Nếu không nhìn vào gương, bạn sẽ không nhìn thấy khuôn mặt. Quán tưởng vị bổn tôn có nghĩa là tấm gương tâm được phép nghĩ rằng, "Tôi là Vajra Kilaya". Bạn có thể tự nhắc nhở chính mình rằng bạn là vị bổn tôn, bởi vì năm uẩn và năm đại của bạn ngay từ đầu đã là mandala của chư Phật.

Theo cách này, bằng việc sử dụng một ý nghĩ duy nhất, "Tôi chính là vị bổn tôn", sự quán tưởng không mất quá một khoảnh khắc. Sự hồi tưởng tức thời này, đưa vị bổn tôn vào tâm một cách sống động trong một khoảnh khắc, là hình thức cao nhất và tốt nhất của sự quán tưởng.

Bằng ngữ của bạn, hãy tụng thần chú, và bằng tâm của bạn, hãy nhận biết. Nếu bạn có thể xác quyết rằng kiểu thực hành này là đầy đủ và bao gồm tất cả, thì điều đó hoàn toàn ổn thỏa. Nó không giống như chúng ta phải làm hài lòng vị bổn tôn trí tuệ - vốn không có tư tưởng nào cả. Các vị bổn tôn trí tuệ không hài lòng, cũng chẳng bất mãn, vì vậy vấn đề thực sự là bạn phải tự đưa ra quyết định và thực hành theo con đường đơn giản và hàm chứa tất cả này. Đây là quan điểm của tôi. Có thể tôi đã quá đơn giản hóa ở đây. Nhưng mặt khác, nó có thể chính là như vậy, có thể nó là hoàn toàn chính xác.

Bài viết liên quan