VUA AJÄTASATTU ĐẾN ĐẢNH LỄ PHẬT - TRƯỜNG BỘ KINH, KINH SA MÔN QUẢ BHIKKHU SAMADHIPUNNO

VUA AJÄTASATTU ĐẾN ĐẢNH LỄ PHẬT

TRƯỜNG BỘ KINH, KINH SA MÔN QUẢ

BHIKKHU SAMADHIPUNNO

–––––o0o–––––

Vua Ajātasattu nhiều lần hỗ trợ và là đồng phạm tích cực giúp cho Devadatta âm mưu chống lại Đức Phật và gây chia rẽ Tăng đoàn. Vua Ajātasattu đã tiêu phí nhiều tài sản để xây dựng một tự viện ở Gayāsisa cho Devadatta làm hội chúng tại đấy. Theo lời khuyên ác của Devadatta, vua đã giết phụ vương của mình, là một vị vua theo Chánh pháp, một Thánh đệ tử đã chứng quả Dự lưu. Sau sự...
VUA AJÄTASATTU ĐẾN ĐẢNH LỄ PHẬT - TRƯỜNG BỘ KINH, KINH SA MÔN QUẢ BHIKKHU SAMADHIPUNNO

Vua Ajātasattu nhiều lần hỗ trợ và là đồng phạm tích cực giúp cho Devadatta âm mưu chống lại Đức Phật và gây chia rẽ Tăng đoàn. Vua Ajātasattu đã tiêu phí nhiều tài sản để xây dựng một tự viện ở Gayāsisa cho Devadatta làm hội chúng tại đấy. Theo lời khuyên ác của Devadatta, vua đã giết phụ vương của mình, là một vị vua theo Chánh pháp, một Thánh đệ tử đã chứng quả Dự lưu. Sau sự kiện đó, vua cảm thấy ăn năn, hối hận và cắt đứt mọi giao du với kẻ ác Devadatta. Sau nhiều âm mưu hiểm ác và đều thất bại, Devadatta phải lãnh chịu hậu quả thảm hại và bị đất rút, sanh vào địa ngục Avīci.

Khi hay tin Devadatta đã bị đất nuốt sống, vua suy nghĩ: "Ta cũng có thể bị đất nuốt", nên rất hoảng hốt lo sợ, không vui vẻ với ngai vàng mà mình hằng mong ước, ngủ không yên giấc, đi lang thang, hoảng hốt run rẩy như con voi con bị những hình phạt sắc bén. Trong tưởng tượng, vua thấy như đất nứt né ra, nhu lửa địa ngục Avici phun lên, như mình bị đất nuốt xuống, như mình bị bắt nằm ngửa trên tấm đồng nung đỏ, như bị các cây gậy sắt đâm xuyên vào thân. Như một con gà trong bị thương tích, không giây phút nào vua không run sợ. Nhiều lần, vua Ajātasattu muốn đến yết kiến bậc Chánh đẳng giác, muốn cầu xin Ngài tế độ nhưng không dám đi đến gần Ngài vì mặc cảm tội lỗi quá lớn mà mình đã gây ra.

Nhân ngày lễ hội Kattika đêm trăng tròn tháng Mười, thành Rajagaha được thắp đèn và trang hoàng như thành phố chư Thiên, vua Ajātasattu ngự trên ngai vàng với quần thần vây quanh trong cung điện lớn. Khi ấy, nhà vua đã thốt lên lời cảm hứng: "Thật khả ái thay, này các khanh, đêm rằm sáng trăng! Thật diễm lệ thay, này các khanh, đêm rằm sáng trăng! Thật mỹ miều thay, này các khanh, đêm rằm sáng trăng! Thật êm dịu thay, này các khanh, đêm rằm sáng trăng! Thật điềm lành thay, này các khanh, đêm rằm sáng trăng! Hôm nay chúng ta nên đến chiêm bái vị Sa-môn hay Bà-la-môn nào để vị ấy làm tâm chúng ta được an lạc?".

Vua nói lại suy nghĩ đó của mình cho bá quan và mỗi người một ý, từng nguười trong đám triều thần đã gợi ý cho vua đến gặp vị giáo chủ mà mình mến mộ nhất. Tính tới lui trong đó có đủ cả sáu vị giáo chủ của lục đại môn phái ngoại đạo đương thời. Một đại thần tán thán Püraņa Kassapa, một đại thần tán thán Makkhali Gosäla, một đại thần tán thán Ajita Kesakambala, một đại thần tán thán Pakudha Kaccäyana, một đại thần tán thán Sañjaya Bellatthiputta, một đại thần tán thán Nigantha Nāthaputta.

Vua nghe các đại thần ấy nhưng vẫn im lặng. Vua chờ đợi đại thần Jivaka nói. Nhưng Jivaka ngồi không xa, suy nghĩ: Không biết vua có cho đợi mình nói hay không, nên Jivaka vẫn ngồi im lặng. Cuối cùng vua nói với đại thần Jivaka:

- Này hiền khanh Jivaka, sao khanh không nói gi?

- Tâu đại vương, chính tại vườn xoài này của chúng con, có Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh đẳng Chánh giác, hiện đang trú ngụ với đại chúng Tỳ-khưu một nghìn hai trăm năm mươi vị. Thế Tôn Gotama có tiếng đồn tốt đẹp sau đây lan rộng: "Đây là Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh đẳng Chánh giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn". Đại vương hãy đến chiêm bái Thế Tôn này. Rất có thể, nhờ chiêm bái Thế Tôn, tâm của đại vương được tịnh tín.

- Vậy khanh Jivaka, hãy cho thắng kiệu voi.

- Vâng, tâu dai vương.

Sau khi các cỗ xe được thắng xong, vua đi đến rừng xoài của Jivaka với uy nghi của một vị vua. Khi đi đến không xa vườn xoài, vua bỗng sợ hãi, kinh hoàng, tóc dựng lên. Lúc bấy giờ Ajātasattu nói với Jivaka:

- Này khanh Jivaka, người phản ta chăng? Này khanh Jīvaka, người lường gạt ta chăng? Này khanh Jivaka, ngươi nạp ta cho kẻ thù chăng? Tại sao trong một đại chúng lớn như thế này gần một nghìn hai trăm năm mươi vị, mà không có một tiếng đằng hắng, không có một tiếng ho, không một tiếng ồn?

- Tâu đại vương, thần không phản lại ngài, thần không lường gạt ngài, tâu đại vương, thần không nạp ngài cho kẻ thù tâu đại vuơng, hãy đi thẳng tới; tâu đại vương hay đi thẳng tới. Tại chỗ kia trong căn nhà tròn cho có những ngọn đèn đang thắp sáng.

Lúc bấy giờ, Ajatasattu đi cho đễn chỗ voi có thể đi được, rồi xuống voi đi đến cửa căn nhà tròn, Khi đến nơi liêgn nói với Jivaka:

  • Này khanh Jivaka, Thế Tôn ở tại đâu?

-  Tâu đại vương, vị ấy là Thế Tôn. Tâu đại vương, Thế Tôn ngồi dựa vào cột chính giữa, mặt hướng phía Nam, ngồi trước mặt chúng Tỳ-khưu.

Vua Ajätasattu liền tiến đến chỗ Thể Tôn. Khi đến rồi, vua đứng một bên và nhìn khắp hội chúng Tỳ-khưu đang yên lặng an tịnh như một hồ nước trong, cảm hứng nói rằng: "Mong hoàng tử Udayibhadda cũng đuợc sự trầm lặng như sự trầm lặng của các vị Tỳ-khưu này vậy".

- Đại vuơng, hình như tâm trí của đại vương nặng nhiều về tình thưrơng thì phải?

- Bạch Thế Tôn, con thương hoàng tử Udayibhadda rất nhiều.

 Mong rằng hoàng tử Udayibhadda cũng được sự trầm lặng như sự trầm lặng của chúng Tỳ-khưu này vậy.

Lúc bấy giờ vua Ajātasattu đảnh lễ Thế Tôn, chấp tay vái chào chúng Tỳ-khưu, và ngồi xuống một bên. Sau khi ngồi xuống một bên, Ajātasattu bạch với Thế Tôn:

- Bạch Thế Tôn, con muốn hỏi Thế Tôn một vấn đề này, nếu Ngài cho phép con hỏi.

- Đại vương cứ hỏi tùy theo ý muốn của đại vương. Đức vua nhắc lại câu hỏi của mình về ý nghĩa và lý tưởng của một đời sống xuất gia, một câu hỏi mà trước đó vua đã từng đem đến tham vấn ở các vị giáo chủ của lục đại môn phái và chưa có một câu trả lời nào làm ông toại ý. Đức Phật đã trả lời cho vua bằng một thời pháp thoại và nội dung của thời pháp thoại đó gọi là bài kinh Sa-môn quả Sāmaññaphalasutta.

Đức Phật đã trả lời cho vua bằng cách tuần tự nêu lên toàn bộ con đường tu chứng của một vị Tỳ-khưu đệ tử thông qua hệ thống: Giới học, Định học, Tuệ học, Giải thoát, Giải thoát tri kiến mà bắt đầu Tứ thanh tịnh giới (catupārisudhisīla):

- Biệt giải thoát thu thúc giới (Pāțimokkhasamvarasila), là giới bổn Pāțimokkha gồm hai trăm hai mươi bảy điều học mà Đức Phật đã chế định, những giới này vị Tỳ-khưu phải nghiêm trì phòng hộ. Giới bổn được thanh tịnh do nhờ đức tin (saddhä).

- Quyền thu thúc giới (Indriyasamvarasīla), là giới thu thúc lục căn: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Vị Tỳ-khưu có chánh niệm khi lục căn tiếp xúc lục trần phòng ngừa bất thiện tâm sanh khởi khi thấy, nghe. giới thu thúc này đưoc thanh tịnh do nhờ chánh niệm (sati)

- Dưỡng mạng thanh tịnh giới (Ajivapārisuddhisila), là giới nuôi mạng thanh tịnh. Vị Tỳ-khưu tinh tấn trong việc khất thực để nuôi sống, chó không tìm cách thu lợi lộc bằng sự tà mạng phi pháp. Giới nuôi mạng này được thanh tịnh nhờ tinh tấn (vìriya).

-Vật dụng quán tưởng giới (Paccayasannissitasīla), giới quán tưởng bốn món vật dụng. Vị Tỳ-khưu khi thọ dụng y phục, vật thực, sàng tọa và thuốc trị bệnh, dùng trí tuệ quán tưởng để ngăn lòng tham muốn. Vị Tỳ-khưu phải tỉnh thức trong lúc sử dụng các thứ vật chất nhu yếu, hạn chế tối đa những nhu cầu vật chất không thật sự cần thiết và vô tâm sử dụng các nhu yếu phẩm trong một tinh thần không phân biệt hay chọn lựa. Giới này được thanh tịnh do nhờ trí tuệ (paññā).

Y cứ trên nền tảng của Tứ thanh tịnh giới. Vị Tỳ-khưu vận dụng bốn mươi đề mục thiền chỉ để tu chứng tám tầng thiền Đáo đại, hoàn tất Định học. Trên cơ sở Định học này, vị Tỳ-khưu tu tập Tứ niệm xứ (Tuệ học) để thành tựu các pháp siêu thế (giải thoát) mà ở đây Đức Phật nói rõ là Tam minh hoặc Lục thông.

Cuối bài kinh, vua hoan hỷ, xin quy y, trở thành người cận sự nam suốt đời và vua cũng xin Thế Tôn tha thứ lỗi lầm mà mình đã gây ra:

- Thật là vi diệu thay, bạch Thế Tôn! Thật là vi diệu thay, bạch Thế Tôn! Bạch Thế Tôn, như người dựng đứng lại những gì bị che kín, chỉ đường cho kẻ bị lạc hướng, đem đèn sáng vào trong bóng tối để những ai có mắt có thể thấy sắc. Cũng vậy, Chánh pháp đã được Thế Tôn dùng nhiều phương tiện trình bày, giải thích. Và nay con xin quy y Thế Tôn, quy y Pháp và quy y Tỳ-khưu Tăng. Mong Thế Tôn nhận con làm đệ tử, từ nay trở đi cho đến mạng chung, quy ngưỡng. Bạch Thế Tôn, con đã phạm một trọng tội, Vì ngu si, vì vô minh, vì bất thiện, con đã hại mạng phụ vương con, một vị vua chơn chánh, để đoạt vương quyền. Mong Thế Tôn nhận cho con tội ấy là một tội để con ngăn chặn về tương lai".

- Đại vương, thật là một trọng tội. Vì ngu si, vì vô minh, vì bất thiện, đại vương đã hại mạng phụ vương, một vị vua chơn chánh, để đoạt vương quyền. Vì đại vương đã thấy tội ấy là một tội, đã thú tội đúng với Chánh pháp, Ta nhận tội ấy cho đại vương. Đó là một sự tiến bộ, này đại vương, trong luật pháp của bậc Thánh, những ai thấy tội là tội, thú tội đúng với Chánh pháp, và ngăn chặn ở tương lai.

Sau khi đảnh lễ Thế Tôn, từ chỗ ngồi đứng dậy, vua Ajātasattu thân bên hữu hướng về Thế Tôn rồi đi ra. Khi vua vừa đi không bao lâu, bậc Đạo sư nói với các Tỳ-khưu:

- Này các Tỳ-khưu, vua này đã bị tồn thương. Này các Tỳ- khưu, nếu vua ấy đã không vì tham vương quyền hại mạng vua cha, một đại vương trị vì đúng pháp, thì vua ấy ngay trên chỗ ngồi này đã khởi lên Pháp nhãn không trần cấu, không ô uế! Do nương tựa Devadatta, theo kẻ bất thiện, nên vua đã không chứng quả Dự lưu.

Ngày hôm sau, các Tỳ-khưu bắt đầu nói chuyện tại Chánh pháp đường:

- Thưa các Hiền giả, nghe nói vua Ajātasattu theo phe kẻ bất thiện, nương tựa Devadatta theo ác giới, làm ác pháp, đã tự mình giết cha, nên đã mất quả Dự lưu. Như vậy, vua bị Devadatta làm hại.

Trong lúc ấy, bậc Đạo sư đi đến Chánh pháp đường hỏi:

- Này các Tỳ-khưu, nay các ông ngồi họp tại đây bàn câu chuyện gì?

Khi được biết vấn đề trên, bậc Đạo sư nói:

- Này các Tỳ-khưu, vua Ajātasattu không phải nay mới theo phe kẻ bất thiện và chịu thiệt hại lớn. Thuở xưa, vua cũng đã theo phe bất thiện và gặp đại nạn.

Sau đó, do lời thỉnh cầu, Thế Tôn đã kể lại câu chuyện tiền thân về thanh niên Sañjiva. Khi ấy, Đức Bồ-tát sanh làm một vị sư trưởng của một hội chúng, vị ấy có một học trò là thanh niên Sañjiva. Bồ-tát dạy cho Sañjīva bùa chú để làm các con vật chết được sống dậy nhưng không dạy bùa chú chế ngự lại. Một hôm, Sañjiva vô rừng, thấy con cọp chết liền đem tài nghệ mình học được làm cho con cọp sống dậy. Khi ấy, cọp liền xông tới, vồ cắn ngay cổ của Sañjiva và chàng ta chết ngay tại chỗ. Con cọp lấy sức vồ mạnh quá đà nên cũng té xuống núi mà chết luôn. Thanh niên Sañjīva chính là tiền thân của vua Ajātasattu.

Từ sau lần yết kiến đó, nhà vua trở thành đệ tử cư sĩ trung kiên của Đức Phật, vua rất quý trọng Thế Tôn đến đỗi khi nghe nói Upaka Maņdikāputta thưa gởi có vẻ thiếu lễ độ với Phật, Ajātasattu liền nổi trận lôi đình nói rằng: “Thật là độc hai, đứa trẻ làm muối này! Thật là lắm mồm, thật là kẻ liều mạng. Nghĩ rằng nó có thể nhiec mắng Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh đẳng giác. Hãy đi đi, này Upaka! Chớ để Ta thấy ông nữa!".

Thời gian sau, trước khi Đức Thế Tôn viên tịch khoảng một năm, tức là vào năm thứ bốn mươi bốn của cuộc đời hoằng pháp của Ngài, vua Ajātasattu muốn đánh chiếm dân Vajji nên đã cử cận thần Bà-la-môn Vassakāra đến yết kiến, đảnh lễ Phật để tham vấn kế về việc gây chiến với dân Vajji và cơ hội chiến thắng địch.

Đức Phật trả lời rằng: khi ở đền Sārandada, Ngài đã từng dạy cho dân chúng xứ Vajji hành trì bảy pháp bất thối (aparihānīyadhamma) thì không thể nào đánh chiếm được họ nếu như ngày nào họ còn thọ trì bảy điều học này:

- Thường xuyên tụ họp và tụ họp đông đảo với nhau.

- Tụ họp trong niệm đoàn kết, giải tán trong niệm đoàn kết, và làm việc trong niệm đoàn kết.

- Không ban hành những luật lệ không được ban hành, không hủy bỏ những luật lệ đã được ban hành, sống đúng với truyền thống của dân Vajji như đã ban hành thuở xưa.

- Tôn sùng, kính trọng, đảnh lễ, cúng dường các bậc Trưởng lão Vajji và nghe theo lời dạy của những vị này.

- Không bắt cóc và cưỡng ép những phụ nữ, và thiếu nữ Vajji phải sống với mình.

- Tôn sùng, kính trọng, đảnh lễ, cúng dường các tự miếu của Vajji ở tỉnh thành và ngoài tỉnh thành, không bỏ phế các cúng lễ đã cúng từ trước đúng với quy pháp.

- Bảo hộ, che chở, ủng hộ đúng pháp các vị A-la-hán ở tại Vajji, khi các vị A-la-hán chưa đến sẽ đến trong xứ, và những vị A-la-hán đã đến được sống an lạc.

Cận thần Bà-la-môn Vassakāra trình bày lại với đức vua và họ biết rằng họ không thể đánh bại được dân chúng Vajji nên tìm cách ly gián, làm cho nội bộ bất hoà mới chinh phục được họ mà thôi. Thế là, Vassakāra lập kế để nhà vua đuổi ông đi vì đã bênh vực người Vajji. Vassakāra đi qua xứ Vajji và được người Licchavī mời để dạy dỗ cho con em họ. Khi ấy, Vassakāra xúi các đứa trẻ con gây gổ và sự tranh chấp rồi từ từ lan dần tới người lớn. Sau ba năm, dân Licchavī hoàn toàn chống đối nhau, đến đổi lúc trống đánh mời họp họ cũng không thèm đến, như vậy là pháp bất thối đã thọ trì bị tiêu hoại. Vassakāra đưa mật tin về vua Ajātasattu và quân Magadha qua đánh chiếm Vajji một cách dễ dàng.

Đức vua Ajātasattu là một cận sự nam thuần thành và họ độ Phật giáo rất nhiều để chuộc lại những lỗi lầm mà ông đã tạo. Nhắc đến công đức lớn nhất của vua chính là nhà vua đã tài trợ và ủng hộ hết mình cho cuộc kết tập kinh điển lần thứ nhất sau khi Đức Phật viên tịch Níp-bàn, tại thạch động Sattapan! trên núi Vebhāra ở ngoại thành Magadha. Khi được các vị Tôn giả thông báo về sự việc, vua liền cho xây dựng lên một Giảng đường nguy nga tráng lệ ở một bên của ngọn núi đá Vebhära tại lối vào thạch động Sattapanni, và Giảng đường ấy giống như Giảng đường của chư Thiên. Khi giảng đường đuợc trang hoàng đầy đủ, vua sai trải những tấm thảm quí giá theo số lượng của những vị Tỳ-khưu, có một bảo tọa cao quí được đặt ở phía Nam xoay mặt về hướng Bắc dành cho vị Trưởng lão, và ở giữa Giảng đường một chiếc ghế cao được sửa soạn dành cho vị tụng pháp (Dhamāsana), chiếc ghế này xoay về hướng đông và xứng với Đức Thế Tôn.

Đức Phật viên tịch vào năm thứ tám sau khi vua Ajātasatu lên ngôi, sau đó hai mươi bốn năm nữa, nhà vua bị hoàng tử của mình là Udāyibhadda giết cha soán ngôi, như vậy vua Ajātasatu chỉ tại vị có ba mươi hai năm.

Được biết, sau khi chết, vua Ajātasattu không bị đọa vào Avīci do ông đã tạo thêm nhiều công đức thiện pháp, nên ông tái sanh vào địa ngục Lohakumbhiya. Tại đây, Ajātasattu phải chịu hình phạt khốc liệt như là ông sẽ bị chìm từ từ xuống từng phút cho đến đáy nồi đồng sôi ấy trọn thời gian là ba mươi ngàn năm của địa ngục ấy, rồi khi nổi lên cũng từ từ nổi lên với thời gian là ba mươi ngàn năm mới đến miệng nồi. Sự thọ khổ của vua Ajātasattu có thời hạn là sáu mươi ngàn năm của địa ngục, mới được thoát khỏi nơi ấy. Sau thời gian hai a-tăng-kỳ nữa, vua Ajātasattu sẽ trở thành một vị Phật Độc giác, có hồng danh là Vijitāvī.

Nói về triều đại các vị vua kế tiếp, sau khi giết vua cha Ajātasattu, hoàng tử Udayibhadda lên ngôi trị vì được mười sáu năm thì con trai vua là Anuruddhaka giết cha để lên ngôi. Chẳng được bao lâu thì con trai của vua Anuruddhaka là Munda nổi lên soán ngôi vua và giết cha. Về sau, con trai của vua Muņda là Nāgadāsaka cũng giết chết cha của mình và trị vì ngôi vua được hai mươi bốn năm.

Lúc bấy giờ, dân chúng phẫn no nói rång: "đây là một triều đại của những kẻ giết cha", và khi đó họ đã trục xuất vua Nāgadāsaka. Dân chúng tụ họp lại và bầu ra vị quan tên Susunāga được mọi người kính mến lên làm vua, vì vị quan này là người biết quan tâm đến lợi ích của tất cả mọi người.

–––––o0o–––––

Trích “Cuộc Đời Và Những Lời Dạy Của Đức Phật”

Tác giả: Bhikkhu Samadhipunno

Biên soạn: Định Phúc

NXB Hồng Đức

Bài viết liên quan